Home » biendao - tiếng Việt
Thứ Hai, 30 tháng 1, 2017
“Một vành đai, một con đường” và sự tái cân bằng chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông (phần 1)
“Một vành đai, một con đường” phải dựa vào việc
Trung Quốc và các nước ven bờ xây dựng quan hệ tốt đẹp trên cơ sở tin cậy lẫn
nhau về chính trị. Như vậy, điều đầu tiên Trung Quốc cần làm là phải tạo lòng
tin, mà trước hết là vấn đề Biển Đông.
Theo quy hoạch của Chính phủ Trung Quốc, “Con
đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” đi qua Biển Đông theo hướng Tây đến Ấn Độ
Dương và Địa Trung Hải, theo hướng Nam đến Nam Thái Bình Dương. Mục đích của
con đường là muốn nối liền vòng kinh tế châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương,
nhưng trọng điểm là hướng tới các nước Đông Nam Á. Hiển nhiên, Biển Đông là nơi
xung yếu trấn giữ “Con đường tơ lụa trên biển”. Liệu Biển Đông có sóng yên gió
lặng hay không liên quan đến tiến trình và tốc độ thúc đẩy “Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ 21”.
Từ góc độ địa
chiến lược, Biển Đông là “yết hầu” trấn giữ Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương,
là điểm gặp gỡ của tuyến đường hàng hải quốc tế giữa khu vực Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương - nơi có địa vị chiến lược ngày càng quan trọng. Biển Đông cũng là
“trái tim” của vòng kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, một nửa vận chuyển
hàng hóa và 1/3 vận tải biển hàng năm trên thế giới đều phải thông qua 4 eo biển
lớn của Biển Đông: Malacca, Sunda, Lombok và Makassar. Tổng lượng dầu thô từ Ấn
Độ Dương đi qua Biển Đông đến Đông Á gấp 3 lần kênh đào Suez, gấp 15 lần kênh
đào Panama. 80% lượng nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc, 2/3 lượng nhập khẩu
năng lượng của Hàn Quốc, 60% lượng nhập khẩu năng lượng của Nhật Bản đều phải
đi qua Biển Đông.
Cho nên, Biển
Đông chắc chắn có địa vị trọng tâm trong chiến lược “Con đường tơ lụa trên biển
thế kỷ 21”. Hòa bình và ổn định của Biển Đông là bảo đảm tất yếu để thúc đẩy
“Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và quyền
lợi biển của Biển Đông liên tục bế tắc, thậm chí là xấu đi là trở ngại không thể
xem thường khi thúc đẩy “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”. Trái lại, “Vành
đai kinh tế Con đường tơ lụa” trên lục địa dường như rất khó tìm được một khu vực
có địa vị chiến lược quan trọng như Biển Đông trong “Con đường tơ lụa trên biển
thế kỷ 21”. Có lẽ phải gộp một vài hành lang kinh tế lớn, nhất là Hành lang
kinh tế Trung Quốc-Pakistan và Hành lang kinh tế Bangladesh-Trung Quốc-Ấn Độ-Myanmar
mới có thể có địa vị tốt như Biển Đông trong “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ
21”. Và nếu so sánh tầm quan trọng của “Một vành đai” (Vành đai kinh tế Con đường
tơ lụa) với “Một con đường” (Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21) trong chiến
lược tổng thể của Trung Quốc, thì tầm quan trọng của “Một con đường” lớn hơn
nhiều so với “Một vành đai”.
Tiến trình
xây dựng “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” khó có thể tách rời tranh chấp
Biển Đông
Vấn đề hiện
nay là sáng kiến “Một vành đai, một con đường” chính thức được đưa ra năm 2013,
văn kiện về tầm nhìn “Một vành đai, một con đường” và kế hoạch hành động được
công bố tháng 3/2015. Năm 2013 và 2015 là thời kỳ đỉnh điểm của tranh chấp Biển
Đông từ năm 2009 đến nay. Lập trường của Chính phủ Trung Quốc là “Con đường tơ
lụa trên biển thế kỷ 21” chú trọng hợp tác về kinh tế và nhân văn, về nguyên tắc
không đề cập đến vấn đề tranh chấp. Nhưng trên thực tế, lại rất khó tách việc
xây dựng “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” với tranh chấp Biển Đông.
Chính phủ
Trung Quốc nhấn mạnh “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” không phải là công
cụ địa chính trị, mà là sản phẩm công cộng của tất cả các nước. Nhưng ở Đông
Nam Á, đặc biệt là các nước ven bờ Biển Đông như Việt Nam, Philippines,
Malaysia, Indonesia, Singapore, tranh chấp Biển Đông đã nâng cao tính cảnh giác
của những nước này đối với ý đồ địa chính trị của Trung Quốc, cho dù những nước
này không cho rằng bản thân “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” có ý đồ địa
chính trị gì.
Vậy tranh chấp
Biển Đông có nảy sinh ảnh hưởng đối với việc thúc đẩy hợp tác “Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ 21”, hợp tác kinh tế và nhân văn giữa Trung Quốc và các nước
Đông Nam Á hay không? Việc Trung Quốc thúc đẩy hợp tác dự án “Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ 21” ở Đông Nam Á hiển nhiên đã giành được một số thành quả, có
một số dự án quan trọng, đặc biệt là dự án đường sắt cao tốc và khu công nghiệp
với các nước như Lào, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Năm 2015, một quan chức
ngoại giao có thâm niên của Singapore nói với tác giả bài viết: “Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ 21” của Trung Quốc ở bán đảo Đông Dương trên thực tế đã thành
công, thách thức hiện nay đến từ các nước Đông Nam Á trên biển. Ngoài ra, về hợp
tác kinh tế thương mại tổng thể, lượng thương mại và mức độ đầu tư của Trung Quốc
và ASEAN trong những năm gần đây vẫn liên tục tăng lên.
Nhưng nếu
trong những năm này không có tranh chấp Biển Đông, hoặc cường độ tranh chấp và
mức độ căng thẳng của tình hình khu vực đều nhỏ hơn nhiều, thì việc thúc đẩy tiến
trình xây dựng “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” sẽ thuận lợi hơn. Thực chất,
các dự án của Trung Quốc ở bán đảo Đông Dương không phải là luôn thuận lợi, đường
sắt Trung-Lào, Trung Quốc-Thái Lan đều phải đối diện với các vấn đề không lớn
thì nhỏ.
Tổng lượng
kinh tế thương mại Trung Quốc-ASEAN quả thực đang tăng lên. Nhưng ngoài số lượng,
còn có một chỉ tiêu đánh giá rất quan trọng khác - tốc độ. Tốc độ phát triển
kinh tế thương mại Trung Quốc-ASEAN đang tăng hay giảm? Nếu có phần giảm xuống,
thì sự giảm xuống này ở mức độ nào là do sự điều chỉnh kết cấu kinh tế và
thương mại của Trung Quốc và ASEAN gây ra, ở mức độ nào là do chịu ảnh hưởng của
tranh chấp Biển Đông?
Hiện nay, từ
phía chính phủ đến giới học giả của Trung Quốc đều cho rằng rất nhiều quốc gia
Đông Nam Á tỏ ra lạnh nhạt đối với một số dự án của “Con đường tơ lụa trên biển
thế kỷ 21”. Đúng như nghiên cứu viên của Viện biên cương thuộc Viện khoa học xã
hội Trung Quốc Lý Quốc Cường từng nói Trung Quốc nên nghiên cứu nguồn gốc sâu
xa của những phản ứng tiêu cực này, là vì những quốc gia này thiếu nhu cầu bên
trong hợp tác với Trung Quốc, hay là vì tranh chấp Biển Đông khiến cho những nước
này có phần lo lắng về chính trị và an ninh? Nghiên cứu của giới học thuật phải
tránh tiến hành một cách hời hợt, thiếu sâu xa đối với sự phát triển kinh tế
thương mại tổng thể giữa Trung Quốc và ASEAN, mà nên đi sâu vào từng quốc gia
ASEAN cụ thể, tìm tòi nghiên cứu nhu cầu của những nước này đối với “Một vành
đai, một con đường”. Như vậy, mới có thể áp dụng các biện pháp có hiệu quả,
thúc đẩy mang tính đối xứng hợp tác “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”.
Thực chất,
quan hệ kinh tế thương mại Trung Quốc-ASEAN không được phép lạc quan một cách
mù quáng. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN, nhưng điều đáng
chú ý là xuất siêu thương mại của Trung Quốc sang ASEAN đang từng bước tăng
lên, đồng thời ên đến 78,4 tỷ USD trong năm năm 2015 l. Điều này cũng có nghĩa
là kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN ngày càng vượt qua kim ngạch
nhập khẩu. Năm 2014, nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN chỉ tăng 4,4%, nhưng năm
2015 lại giảm 6,5%, 9 tháng đầu năm 2016 giảm 5,3%.
Nhập khẩu của
Trung Quốc từ ASEAN giảm xuống sẽ làm giảm sức hút kinh tế của Trung Quốc đối với
ASEAN. Xu thế này có nguyên nhân mang tính kết cấu từ sự chuyển đổi mô hình
kinh tế trong nước Trung Quốc. Kết cấu kinh tế của Trung Quốc đang nỗ lực chuyển
đổi mô hình từ ngành chế tạo sang ngành dịch vụ, điều này chắc chắn sẽ khiến
cho Trung Quốc giảm nhập khẩu nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện từ ASEAN,
điều này cũng có nghĩa là mức độ phụ thuộc của ASEAN đối với kinh tế Trung Quốc
đang giảm xuống; Trung Quốc đang chuyển từ khởi nguồn chủ yếu của nhu cầu bên
ngoài của ASEAN sang nhân tố không xác định trong sự phát triển kinh tế của
ASEAN. Hơn nữa, xuất siêu thương mại của Trung Quốc có nghĩa là một khi quan hệ
kinh tế song phương xuất hiện dấu hiệu giảm xuống, tổn thất kinh tế mà Trung Quốc
phải chịu sẽ không kém tổn thất mà kinh tế ASEAN phải chịu.
Trong tình
hình quan hệ thương mại không sáng sửa này, quan hệ đầu tư lại đặc biệt quan trọng,
và đầu tư nước ngoài của Trung Quốc chính là hạt nhân của “Một vành đai, một
con đường”. Nhưng trên phương diện đầu tư và mở rộng thị trường sang ASEAN,
Trung Quốc không chiếm ưu thế trong cạnh tranh với Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Từ
lâu nay, Mỹ là nhà đầu tư lớn nhất của Đông Nam Á, lượng vốn đầu tư đạt 226 tỷ
USD, nhiều hơn tổng lượng vốn đầu tư của ba nước Trung-Nhật-Hàn.
Thiếu sự tin
cậy lẫn nhau là trở ngại quan trọng trong tiến trình xây dựng “Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ 21”
Tổn thất lớn
nhất của tranh chấp Biển Đông trong những năm qua đối với ý tưởng “Con đường tơ
lụa trên biển thế kỷ 21”, đối với quan hệ Trung Quốc-Đông Nam Á nằm ở chỗ đã
làm giảm sự tin cậy lẫn nhau về chính trị, và sự tin cậy lẫn nhau là tiền đề tất
yếu của hợp tác tầng sâu, mang tính chiến lược. Trước đây, việc Trung Quốc xây
dựng sự tin cậy lẫn nhau với ASEAN có một số trở ngại, nhất là các nước Đông
Nam Á vẫn có một số ký ức không tốt đẹp đối với việc Trung Quốc xuất khẩu cách
mạng sang khu vực này trong thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh, hệ thống triều cống
của Trung Quốc cổ đại. Hiện nay, tranh chấp Biển Đông đã trở thành trở ngại thứ
3 ảnh hưởng đến việc Trung Quốc và ASEAN tăng cường sự tin cậy lẫn nhau.
Rất nhiều dự
án của “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” đều có tính chiến lược mạnh mẽ, đầu
tư cao, chu kỳ dài, tính bất định lớn, một số dự án cần có sự can dự và thúc đẩy
của lãnh đạo quốc gia. Nếu thiếu sự tin cậy lẫn nhau, những dự án mang tính chiến
lược này rất khó có thể được triển khai thuận lợi. Ví dụ như việc thực hiện
“trao đổi kết nối” ở Đông Nam Á, rất nhiều người đề nghị phải xây dựng cảng biển
lưỡng dụng (quân sự và dân sự) có ý nghĩa chiến lược. Nhưng liệu có thể thực hiện
điều này hay không, chí ít một phần được quyết định bởi mức độ tin cậy lẫn nhau
về chính trị. Quan hệ Trung Quốc-Malaysia không tồi, có cơ sở tin cậy lẫn nhau
nhất định, cho nên có thể thực hiện xây dựng cảng biển. Trái lại, sự tin cậy lẫn
nhau giữa Trung Quốc và Indonesia kém hơn rất nhiều. Nhưng từ góc độ chiến lược,
trong nước Trung Quốc đều cho rằng tầm quan trọng của Indonesia đối với Trung
Quốc lớn hơn Malaysia, ý nghĩa của việc thực hiện dự án cảng biển mang tính chiến
lược với Indonesia đối với Trung Quốc càng lớn hơn, nhưng điều này đòi hỏi
Trung Quốc phải tăng cường quan hệ với Indonesia trên phương diện chính trị và
an ninh, xây dựng sự tin cậy lẫn nhau về chính trị giữa hai nước.
Một ví dụ
khác thường được nói đến, Trung Quốc phải tiến hành kết nối chiến lược với các
nước dọc tuyến “Một vành đai, một con đường”. Nhưng nếu thiếu sự tin cậy lẫn
nhau, liệu có thể kết nối hay không, thậm chí liệu những quốc gia này có mong
muốn kết nối hay không, đều trở thành vấn đề. Chính quyền Joko Widodo của
Indonesia đề xuất phải xây dựng quốc gia biển, xem chiến lược “Một vành đai, một
con đường” là đối tượng tốt để kết nối, nhưng Chính quyền Joko Widodo chỉ ủng hộ
“Con đường tơ lụa trên biển” bằng lời nói, hành động thực tế lại không tích cực.
Không chỉ có vậy, Indonesia còn đề nghị phải tiến hành tuần tra chung với Úc ở
Biển Đông.
Có thể nói
quan hệ an ninh căng thẳng giữa Trung Quốc với một số nước Đông Nam Á trong những
năm gần đây đã ảnh hưởng đến sự phát triển của quan hệ kinh tế, hạn chế sự thực
hiện thuận lợi của các dự án mang tính chiến lược “Con đường tơ lụa trên biển
thế kỷ 21”. Từ trung ương đến địa phương của Trung Quốc đều cảm nhận được rõ
ràng rằng không ít quốc gia Đông Nam Á không hưởng ứng tích cực đối với sáng kiến
chính sách của Trung Quốc.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...






Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét