Home » biendao
Thứ Ba, 11 tháng 12, 2018
Hiểu và đánh bại cuộc nổi dậy trên biển của Trung Quốc ở Biển Đông (phần 1)
Trung Quốc
đang coi hải phận ở Biển Đông như thể đó là một vùng lãnh thổ đất liền. Mỹ thì
sao?
Sự chi phối
của một hệ thống quốc tế giúp duy trì nguyên tắc pháp lý và triết lý về “quyền
tự do trên biển” là một trong những lợi ích quốc gia quan trọng nhất dù không
được biết đến rộng rãi của Mỹ. Việc bảo toàn trật tự trên biển mang tính tự do
và cởi mở là nhu cầu cấp thiết đối với một quốc gia mà khả năng kết nối của họ
với hơn 80% dân số thế giới phụ thuộc vào vận tải biển. Trong gần 4 thế kỷ,
theo nguyên tắc pháp lý (sau đó được hệ thống hóa thành Công ước Liên hợp quốc
về Luật biển), các đại dương được coi là một tài sản chung, mà ở đó chủ quyền
quốc gia bị giới hạn và hoàn toàn dựa vào tài sản kề gần đất liền. Tuy nhiên, cấu
trúc có ý nghĩa sống còn này đang bị đe dọa nghiêm trọng ở Biển Đông. Trung Quốc
đang tích cực làm việc không chỉ để chiếm ưu thế quân sự, mà thậm chí quan trọng
hơn là để áp đặt một chế độ quản trị thay thế đối với tuyến đường biển có ý
nghĩa sống còn này dựa trên luật pháp trong nước của Trung Quốc và quan điểm từ
lục địa của Bắc Kinh về chủ quyền trên biển. Cách tiếp cận hiện nay của Mỹ đối
với vấn đề này không giải quyết được khía cạnh cốt lõi trong sự hung hăng của Trung
Quốc, vì sự xuất hiện rời rạc của lá quốc kỳ trong các hoạt động tự do hàng hải
của Mỹ theo cách hiểu hiện nay là không được duy trì và do đó thiếu tác động
chiến lược mang tính quyết định. Nhưng chiến thắng của Trung Quốc cho đến nay
chưa phải là chiến thắng cuối cùng. Để khôi phục được vị thế, Mỹ và các đồng
minh của nước này cần phải điều chỉnh lại cách hiểu của họ về chiến dịch của
Trung Quốc trên Biển Đông và định hướng lại chiến lược của Mỹ nhằm đánh bại nó.
Cuộc chiến giữa các cơ chế pháp lý
Mấu chốt của
thách thức trên Biển Đông không phải là cuộc đối đầu thông thường giữa các lực
lượng. Đó chưa phải là một cuộc chiến tranh toàn diện mà cả Mỹ và Trung Quốc hiện
đều tìm cách tránh né, thay vào đó, đó là một cuộc đấu tranh chính trị về ý chí
của các bên bộc lộ qua một cuộc đọ sức giữa hai hệ thống thẩm quyền pháp lý, cụ
thể là giữa chế độ luật pháp quốc tế trên biển đang thịnh hành được gần như tất
cả mọi người công nhận và quan điểm theo chủ nghĩa xét lại từ lục địa của Trung
Quốc về chủ quyền trên biển, theo đó có thể tuyên bố chủ quyền đối với các vùng
biển như là “lãnh thổ quốc gia màu xanh” giống như đất liền để ngăn chặn sự xâm
nhập của tàu thuyền và thủy thủ của các nước khác. Trong “cuộc chiến giữa các
cơ chế pháp lý” này, phản ứng của các thủy thủ dân sự địa phương đến từ các nước
Đông Nam Á – chứ không phải các hành động của 2 lực lượng hiếu chiến – sẽ quyết
định kết quả. Do đó, câu hỏi mang tính quyết định ở đây không phải là “bên nào
sẽ chiếm ưu thế trong cuộc chiến” mà là “người dân sẽ tuân theo luật của bên
nào”?
Cuộc chiến
giữa 2 cơ chế pháp lý là một hình thức tranh giành phiếu bầu ngầm, trong đó những
người ủng hộ của mỗi bên tìm kiếm những người đồng chí hướng trong quần chúng.
Tiến trình này không phải là một nỗ lực để giành lấy “trái tim và khối óc” như
cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát bằng cách sử dụng các biện pháp khích lệ
hoặc cưỡng ép để buộc người dân tuân thủ 1 bộ luật chứ không phải bộ luật của
bên đối lập. Nếu họ được tự do lựa chọn mà không có bất kỳ biện pháp cưỡng ép
nào ở cả 2 phía, thì các thủy thủ dân sự địa phương ở Đông Nam Á gần như chắc
chắn sẽ chọn tuân theo luật pháp quốc tế hiện hành vốn bảo vệ và thi hành quyền
tự do trên biển cho tất cả các quốc gia. Những lợi ích của trật tự cởi mở, dựa
trên các quy tắc đang thịnh hành là rõ ràng hơn khi so sánh với sự lựa chọn
thay thế mang tính đối lập – một chế độ bảo vệ vùng biển lấy Trung Quốc làm
trung tâm, mất tự do và khép kín trong đó các tàu không phải của Trung Quốc chỉ
được qua lại khi Bắc Kinh cho phép. Vì chế độ mà họ đề xuất áp dụng cho Biển
Đông về mặt định tính hoàn toàn không hấp dẫn, nên Trung Quốc đang tìm cách
giành được “phiếu bầu” thông qua việc sử dụng các công cụ tiêu cực mang tính cưỡng
ép, thể hiện sức mạnh quốc gia của họ. Theo đó, Trung Quốc hăm dọa và đe dọa sử
dụng vũ lực thông qua Lực lượng cảnh sát biển và Lực lượng dân quân trên biển của
Trung Quốc, được hậu thuẫn bởi các năng lực chiến đấu cao cấp của Hải quân Quân
giải phóng nhân dân, khiến cho việc di chuyển qua các vùng biển mà các thủy thủ
dân sự có quyền tiếp cận theo luật pháp quốc tế không còn an toàn nữa.
Điều này
không có nghĩa là Trung Quốc thiếu công cụ trong kho chính trị của họ để giành
“phiếu bầu” tại các xã hội Đông Nam Á bằng các biện pháp tích cực thay vì tiêu
cực. Ngược lại, ở cấp chính phủ, Trung Quốc đã sử dụng vô cùng hiệu quả các biện
pháp khích lệ - hứa hẹn phát triển cơ sở hạ tầng; hối lộ và thu hút giới tinh
hoa… - để buộc các mắt xích yếu nhưng chủ chốt ở các xã hội Đông Nam Á phải chấp
nhận hành vi trơ tráo của Trung Quốc trên biển. Trường hợp của Philippines
trong 6 năm qua là một ví dụ minh họa cho động lực này. Năm 2012, trong nhiệm kỳ
tổng thống của Benigno Aquino III, Trung Quốc đã đe dọa trục xuất Hải quân
Philippines ra khỏi bãi cạn Scarborough, một cấu trúc địa hình trên biển nằm
ngay trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines. Sau khi vi phạm một thỏa
thuận xuống thang do Mỹ làm trung gian bằng cách cử tàu quay trở lại bãi đá khi
đó không được bảo vệ, Trung Quốc đã sử dụng các công cụ thực thi pháp luật trên
biển trên danh nghĩa của họ để quấy rầy và áp đặt ý chí của họ đối với các ngư
dân Philippines, buộc những người này phải rời bỏ khu vực, để lại ngư trường
trù phú của Scarborough cho tàu Trung Quốc một mình khai thác. Khi Rodrigo
Duterte lên nắm quyền vào năm 2016, Trung Quốc đã sử dụng sức cám dỗ của đầu tư
cơ sở hạ tầng để khuyến khích Duterte ngả theo khuynh hướng rõ ràng là từ bỏ vị
thế chính trị-ngoại giao và pháp lý vững chắc của đất nước ông trong các tranh
chấp ở Biển Đông. Khi điều đó được hoàn thành, Trung Quốc đã cho phép tàu đánh
cá Philippines quay trở lại bãi cạn Scarborough – nghĩa là, Trung Quốc hiện cho
phép Philippines tận hưởng thành quả của EEZ nhưng chỉ theo các điều khoản do Bắc
Kinh đặt ra.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét