Home » biendao
Thứ Tư, 12 tháng 12, 2018
Hiểu và đánh bại cuộc nổi dậy trên biển của Trung Quốc ở Biển Đông (phần 2)
Tại sao chiến dịch của Trung Quốc là một cuộc nổi dậy trên
biển?
Nếu so sánh
các hành động của Trung Quốc với bất kỳ hình thức chiến tranh nào ở đây, thì đó
là một cuộc nổi dậy. Mặc dù Clausewitz đã đúng khi tuyên bố rằng mọi cuộc chiến
chỉ là sự mở rộng của hoạt động chính trị bằng nhiều phương tiện khác, không có
một hình thức chiến tranh nào khác có bản chất chính trị, với trọng tâm gói gọn
trong những câu hỏi về việc quản trị và pháp luật, như một cuộc nổi dậy. Về cốt
lõi, các cuộc nổi dậy là những cuộc đấu tranh về việc “ai là người cai quản” một
số dân nhất định trong một không gian địa lý nhất định, nghĩa là những người
tham chiến chiến đấu để quyết định luật của bên nào sẽ được thực thi và do đó
tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi trước đó: “Người dân tuân theo luật của bên
nào?”.
Bắc Kinh tìm
cách sử dụng sức mạnh quốc gia của Trung Quốc để áp đặt hệ thống thẩm quyền của
riêng họ đối với người dân ở các nước láng giềng Đông Nam Á, hành động để thúc
ép họ tuân thủ thông qua đe dọa sử dụng vũ lực. Cũng như việc cách tiếp cận từ
lục địa của Bắc Kinh đối với chủ quyền trên biển – quan niệm cho rằng có thể
tuyên bố chủ quyền đối với các vùng biển xa xôi như đối với đất liền – có thể
được nhìn nhận là một sự phát triển từ vị thế địa chính trị lịch sử của Trung
Quốc với tư cách là một đế chế lục địa hám lợi. Sự trỗi dậy trên biển của Trung
Quốc cho đến nay vẫn tiến triển mà phần lớn không bị cản trở nhờ các nỗ lực
khác được nhiều người biết đến hơn - chiếm lãnh thổ và mở rộng vỏ bọc chống tiếp
cận, ngăn chặn xâm nhập khu vực (2A/AD) – đã thu hút được sự chú ý của Mỹ và
các đồng minh đến mức chúng đã thành công trong việc làm phức tạp thêm nỗ lực
mang tính quyết định (cưỡng chế dân thường bằng vũ lực trên biển) và mục tiêu
chiến lược cuối cùng của chiến dịch của họ (áp đặt một hệ thống cai trị thay thế
của Trung Quốc, lật đổ hệ thống luật pháp quốc tế trên biển đang thịnh hành, và
từ đó bảo vệ chủ quyền được công nhận về mặt pháp lý của Trung Quốc trên khắp
vùng Biển Đông rộng lớn nằm trong “đường 9 đoạn”).
Cách thức để
Mỹ và các đồng minh có thể chiếm ưu thế: Chống nổi dậy trên biển
Một khi vấn
đề chiến lược ở Biển Đông đã được xác định là một cuộc nổi dậy, thì giải pháp
chiến lược của Mỹ và các đồng minh cần được dẫn dắt bởi một chiến lược dĩ nhiên
mang tính đối trọng là chống lại cuộc nổi dậy đó. Một cách tiếp cận như vậy
trong lĩnh vực hàng hải, một cuộc “chống nổi dậy trên biển”, sẽ đòi hỏi phải bảo
vệ các thủy thủ dân sự địa phương, đảm bảo an toàn cho họ trước sự quấy rối của
Trung Quốc để họ có thể thực hiện các quyền hợp pháp của mình một cách an toàn
theo chế độ quốc tế đang thịnh hành về quyền tự do trên biển, do đó mang lại
cho người dân công cụ bảo vệ hữu hình và niềm tin cần thiết để thách thức sự đe
dọa của Trung Quốc. Cần phải trấn an người dân rằng các nguyên tắc này trên thực
tế vẫn chưa thay đổi. Chính ở khía cạnh này mà các hoạt động tự do đi lại của Mỹ
được xem là chưa đủ – mặc dù việc các tàu khu trục quá cảnh trong phạm vi 12 hải
lý của các cấu trúc địa hình riêng lẻ bị chiếm đóng trên biển có thể truyền đạt
thông điệp pháp lý rằng Mỹ không công nhận một số tuyên bố lãnh thổ nhất định,
nhưng những hoạt động như vậy trên thực tế không có bất kỳ tác động thực sự nào
vì chúng không được duy trì, và do đó không tác động gì đến niềm tin của người
dân vào việc chính họ cũng có khả năng thực thi các quyền pháp lý quốc tế. Cả
dân thường lẫn người Trung Quốc đều biết rằng các hoạt động tự do hàng hải của
Mỹ là những cử chỉ nhất thời, vì như các nhà tuyên truyền Trung Quốc đã nhắc nhở
thế giới, Mỹ luôn “cao chạy xa bay”, và người dân sẽ là đối tượng bị hăm dọa và
quấy rối ngay sau khi Hải quân Mỹ biến mất một lần nữa.
Một chiến lược
chống nổi dậy trên biển sẽ tìm cách giành chiến thắng trong trận chiến giữa các
cơ chế pháp lý ở lĩnh vực mang tính quyết định, cụ thể là ở sự tham gia và hành
vi của các thủy thủ dân sự. Và giống như các nỗ lực chống nổi dậy trên đất liền,
nó đòi hỏi phải sử dụng sức mạnh của Mỹ và các đồng minh trên một loạt lĩnh vực
quân sự và phi quân sự.
Theo chiến
lược chống nổi dậy trên biển, các hoạt động hộ tống trên biển nhằm mục đích bảo
vệ sẽ được kết hợp với các nỗ lực diễn ra đồng thời nhằm củng cố các chính phủ
và các nền kinh tế ở Đông Nam Á về mặt chính trị trước tầm ảnh hưởng xấu của
Trung Quốc, cùng với việc phát triển và triển khai các lực lượng chiến đấu cao
cấp để ngăn chặn sự gây hấn bằng vũ lực của Trung Quốc trên quy mô lớn chống lại
các đồng minh của Mỹ dọc theo chuỗi đảo đầu tiên.
Mục tiêu
then chốt của việc chống nổi dậy trên biển là khiến cho các lực lượng Trung Quốc
ở Biển Đông trở nên không liên quan trong những tình huống không phải chiến
tranh, cũng như điều mà Trung Quốc đã làm đối với các lực lượng Mỹ trong vài
năm vừa qua. Giả sử Mỹ và các đồng minh có thể cân bằng thành công giữa việc
duy trì sự răn đe khi xung đột diễn ra ở mức cao và tiến hành chống nổi dậy
trên biển khi xung đột ở mức thấp, thì các công cụ cưỡng ép tốn kém mới của
Trung Quốc sẽ bị vô hiệu hóa và trở nên bất lực nếu người dân dưới sự bảo hộ của
Mỹ và các đồng minh cảm thấy đủ tự tin để không chú ý đến những lời cảnh cáo của
Trung Quốc và những đe dọa gây tổn hại của họ.
Thách thức ở
Washington và thủ đô các nước đồng minh là phải vận động cộng đồng mạnh mẽ gồm
những người có kiến thức về lĩnh vực này quyết định cách tốt nhất để duy trì
chiến dịch chống nổi dậy trên biển với phí tổn ở mức có thể chấp nhận được
trong dài hạn. Nếu lịch sử có để lại bất kỳ lời khuyên nào, thì đó là cần phải
tiếp tục chiến dịch này cho dù phải mất bao nhiêu thời gian đi chăng nữa để khiến
ban lãnh đạo Trung Quốc nhận ra rằng sự nổi dậy trên biển của họ không thể làm
đảo ngược sự chi phối của luật pháp quốc tế đang thịnh hành bằng sự cưỡng ép
chưa đến mức sử dụng vũ lực, cũng như những lợi ích thực sự khi Trung Quốc chấp
nhận và tuân thủ hệ thống hiện hành dựa trên quyền tự do trên biển. Một khi các
câu hỏi nổi bật về phương thức hoạt động được các cộng đồng chiến lược ở Mỹ và
các đối tác của họ giải đáp thành công, thì cuộc chống nổi dậy trên biển mới có
khả năng giành chiến thắng mang tính quyết định và vô cùng cần thiết đối với Mỹ
và các đồng minh cũng như trật tự quốc tế tự do dựa trên các quy tắc mà họ bảo
vệ.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét