Home » vanhoa
Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018
Vì sao các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta?
Việt Nam là
quốc gia đa tôn giáo. Những năm qua, cùng với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, Đảng, Nhà nước ta đã
thực hiện nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo, được đa số chức sắc, tín đồ
các tôn giáo trong nước và các tổ chức quốc tế đồng tình hưởng ứng và thừa nhận.
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng, Nhà nước ta vừa tuyên truyền,
giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, vừa quan tâm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các tôn giáo hoạt
động, phát triển bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Trong 15 năm qua, cả nước
đã cấp phép xây dựng, sửa chữa, nâng cấp được 7.916 cơ sở thờ tự, v.v. Đồng thời,
coi trọng củng cố mối quan hệ đoàn kết lương - giáo, cùng nhau phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng thôn, bản, địa phương vững mạnh, giàu đẹp, văn minh, góp
phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Thế nhưng,
các thế lực thù địch đã không chỉ phủ nhận kết quả đó, mà còn lợi dụng tôn
giáo, coi tôn giáo là vũ khí lợi hại để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta, với nhiều chiêu thức thâm độc, tinh vi, xảo quyệt; khi thì bí mật, lúc
thì trắng trợn, công khai. Vậy tại sao họ lại lợi dụng tôn giáo để chống phá
chúng ta? Điều này xuất phát từ bản chất, mục tiêu cao nhất của các thế lực thù
địch là lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ không đi theo quỹ đạo của
chúng, mà trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa bằng chiến lược “Diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ. Phương thức của chúng là tập hợp, liên kết lực lượng lấy
danh nghĩa tôn giáo, thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng
Cộng sản Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ lương -
giáo, tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, quốc tế hóa vấn đề tôn
giáo để dễ bề can thiệp vào công việc nội bộ của ta.
Qua nghiên cứu
thực tiễn cho thấy, việc các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chống phá
cách mạng nước ta là do tôn giáo nói chung, ở Việt Nam nói riêng có những đặc
điểm mà chúng có thể khoét sâu, khai thác.
Trước hết, sự
đối lập về thế giới quan của tôn giáo và thế giới quan duy vật biện chứng trong
nền tảng tư tưởng của Đảng là cơ sở để chúng lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn giữa
chế độ xã hội chủ nghĩa với tôn giáo. Thế giới quan của tôn giáo là thế giới
quan “lộn ngược”; “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào
trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống
hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã
mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. Tính chất duy tâm, thần bí của
tôn giáo đối lập với khoa học, thế giới quan duy vật biện chứng của hệ tư tưởng
Mác – Lê-nin.
Lợi dụng sự
đối lập này, các thế lực thù địch đi sâu tuyên truyền, gieo rắc tâm lý cho rằng,
chủ nghĩa xã hội không chấp nhận tôn giáo, xóa bỏ tôn giáo, từ đó tạo ra khoảng
cách, sự đối kháng giữa tôn giáo với đời sống hiện thực xã hội chủ nghĩa để
kích động tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta. Đồng thời, tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện âm mưu hình thành “Ủy ban
liên tôn đấu tranh đòi quyền tự do tôn giáo”, thành lập tổ chức “Liên tôn chống
cộng”. Nếu nhìn nhận phiến diện thì đúng là có sự đối lập giữa thế giới quan
tôn giáo và thế giới quan cách mạng của Đảng. Sự đối lập đó không có nghĩa là
phải xóa bỏ tôn giáo, mà đòi hỏi có cách nhìn sâu sắc, toàn diện, lịch sử, cụ
thể hơn. Chúng ta cần hiểu rằng, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn
giáo tất yếu đồng hành cùng dân tộc. Thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta chưa bao giờ có tư tưởng xóa bỏ, kỳ thị hay áp bức tôn giáo
mà luôn nhất quán nhận thức: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Do vậy, chúng ta cần quán triệt, thực hiện và kiên quyết đấu
tranh với những luận điệu sai trái, thù địch, nhất là các luận điệu vu khống,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, cho rằng Đảng, Nhà nước ta kỳ thị tôn giáo.
Thứ hai, lợi
dụng về đức tin và sự gắn kết cộng đồng của tôn giáo nhằm lôi kéo, tập hợp lực
lượng chống phá cách mạng nước ta. Mục tiêu chỉ được chuyển hóa thành kết quả
khi có lực lượng thực hiện. Vì thế, các thế lực thù địch đã coi tôn giáo là
chiêu bài để lợi dụng, tập hợp lực lượng chống phá cách mạng, chia rẽ các tôn
giáo với nhau, chia rẽ người có tôn giáo với người không có tôn giáo, nhằm phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự xuất hiện và biến đổi của tôn giáo bao
giờ cũng gắn với nguồn gốc về nhận thức, kinh tế - xã hội và tâm lý. Cũng như
nhiều quốc gia khác, tôn giáo ở Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển dựa vào
các yếu tố: tâm linh; sự giới hạn nhận thức của con người trước thế giới; sự sợ
hãi, bất lực trước tự nhiên rộng lớn, bí ẩn; sự tuyệt vọng về bệnh tật mà y học
chưa vươn tới; cuộc sống khó khăn, túng quẫn về kinh tế, v.v. Khai thác những vấn
đề đó, các thế lực thù địch dựng lên cái gọi là “tôn giáo”, nhằm đáp ứng nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân, bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi
trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu lúc sa cơ, lỡ vận, v.v. Với niềm
tin được đền bù hư ảo do tôn giáo đem lại, các tín đồ bị ràng buộc bởi thứ được
gọi là giáo lý, giáo luật, thực hiện nghi thức “tôn giáo” và những điểm tương đồng
khác, hòng tạo ra sự gắn kết chặt chẽ, lâu bền giữa những người cùng tín ngưỡng.
Sự gắn kết này tạo ra sức mạnh to lớn của một cộng đồng người và nó khác biệt với
các cộng đồng người khác do tín ngưỡng, dẫn đến chia rẽ, mâu thuẫn trong cộng đồng
dân cư, giữa người có đạo và không có đạo. Nguy hiểm hơn là khi khối cộng đồng
người này bị mê hoặc, cuồng tín và hoạt động theo phản xạ tự nhiên, không tuân
thủ chính sách tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện vô điều kiện
theo sự chăn dắt của bọn chủ mưu.
Thứ ba, triệt
để tận dụng những bất cập, sơ hở của các cấp chính quyền trong quản lý, tổ chức
thực hiện chính sách tôn giáo để kích động quần chúng gây mất ổn định an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại các địa phương. Trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, vẫn còn những tàn dư của chế độ xã hội cũ. Quá trình thực hiện
đường lối đổi mới đất nước, những thành tựu là cơ bản, song khó tránh khỏi những
hạn chế, khiếm khuyết trong quản lý, điều hành xã hội, nhất là ở cơ sở. Đây là
khoảnh đất trống mà các thế lực thù địch lợi dụng tổ chức lực lượng trực diện
chống phá đường lối đổi mới đất nước. Điển hình là việc xả thải gây ô nhiễm môi
trường của Công ty Formosa (Hà Tĩnh), giải tỏa đền bù đất tại 42 Nhà Chung, Nhà
thờ Thái Hà, dựng thánh giá, nhà nguyện trái phép ở giáo xứ Đồng Chiêm (Hà Nội),
Đồng Hới (Quảng Bình), giải tỏa Chùa Liên Trì (Thành phố Hồ Chí Minh) và gần
đây là các vụ việc phức tạp tại giáo phận Vinh, Kon Tum, v.v.
Được sự hậu
thuẫn của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, một số linh mục, chức sắc
tôn giáo lợi dụng đức tin của các tín đồ đã tuyên truyền, xuyên tạc hết sức phản
động về Đảng, chế độ, chính quyền các cấp; ngang nhiên phát thư ngỏ trên mạng
xã hội, kêu gọi, kích động giáo dân chặn đường giao thông, biểu tình, gây rối,
đập phá tài sản và tấn công lực lượng chức năng. Có người cho rằng, đây chỉ là
những hành động, việc làm đơn giản, bột phát nhất thời, nhưng thực chất phía
sau là cả những ý đồ đen tối, kế hoạch hết sức sâu xa, nham hiểm, được tính
toán kỹ lưỡng, nhằm gây tiếng vang, tạo cớ, can thiệp vào các vấn đề: dân chủ,
nhân quyền, v.v. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác, thận trọng, tỉnh táo,
xử lý mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển, bảo đảm đúng pháp luật, phù hợp với đặc
điểm, giáo lý, giáo luật tôn giáo và không để mắc mưu kẻ địch.
Thứ tư, dựa
vào đặc điểm địa lý; khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng dân tộc
thiểu số, tôn giáo để phát triển tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, song phát triển không đều về kinh tế, văn hóa,
xã hội. Đời sống dân trí và các hoạt động xã hội giữa thành thị với nông thôn,
miền xuôi với miền núi, vùng có đạo và không có đạo còn có sự chênh lệch. Các
dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng núi cao, địa bàn có vị trí chiến lược
nhưng điều kiện kinh tế - xã hội còn hết sức khó khăn. Đây là “mảnh đất màu mỡ”
để các thế lực thù địch phát triển tôn giáo. Theo thống kê, từ năm 1980 đến
nay, nước ta có khoảng 80 “tôn giáo mới”, hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo
với nhiều nguồn gốc khác nhau, như: Tà đạo Hà Mòn, Pơkhăp Brâu, Dương Văn Mình,
“Tâm linh Hồ Chí Minh”, Long Hoa Di Lặc, Hội thánh đức chúa trời mẹ, v.v Những
thứ gọi là “tôn giáo” này hình thành trên cơ sở tiếp thu giáo lý của các tín
ngưỡng, tôn giáo truyền thống với hình thức lắp ghép hỗn dung và thoát khỏi phạm
vi ảnh hưởng của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống. Trong đó, nhiều tôn giáo được
tổ chức nhằm lôi kéo, tập hợp quần chúng nhân dân chống phá cách mạng, gây rối
trật tự, an ninh xã hội, như: “Tà đạo Vàng Chứ”, “Hội thánh đức chúa trời mẹ”,
“Pháp luân công”. Nguy hiểm hơn, chúng còn lôi kéo, lập ra một số loại hình tôn
giáo riêng cho người dân tộc thiểu số, như: “Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên; “Phật
giáo riêng của người Khơme”,… nhằm “tôn giáo hóa” vùng dân tộc thiểu số, tập hợp
lực lượng, khống chế quần chúng, kích động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn,
gây mất ổn định chính trị - xã hội, hình thành lực lượng đối trọng với chính
quyền và cao hơn là gây mâu thuẫn, xung đột dân tộc, tôn giáo tại các địa bàn
chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tiến tới phá vỡ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Trên cơ sở
nhận thức rõ những thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng nêu trên,
thời gian tới, để tiếp tục đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đó của các
thế lực thù địch, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản
sau: (1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi tầng
lớp nhân dân về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về tôn giáo, nhất là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. (2) Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác tôn giáo. (3) Chú trọng
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh;
xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo vững mạnh về
mọi mặt; quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của bà con giáo dân. (4) Chủ
động nhận diện và đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống
phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét