Tăng cường luận cứ khoa học trong phát triển bền vững kinh tế biển
Với những lợi thế về
cách tiếp cận tổng hợp, tư duy hệ thống và liên ngành, các nghiên cứu của khoa
học địa lí nhân văn đóng góp nhiều luận cứ cho việc giải quyết hầu hết các vấn
đề trong Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045.
Theo đó, để thực hiện
thành công Chiến lược này, khoa học và công nghệ đóng một vai trò quan trọng,
phải đi trước một bước, phát hiện các vấn đề, tìm kiếm giải pháp đổi mới, xây dựng
mô hình thí điểm và áp dụng vào thực tiễn.
Theo Giáo sư, Tiến sỹ
Đặng Nguyên Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng khẳng định, kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ, giải
pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, mở ra triển vọng về giai đoạn
phát triển mới cho nền kinh tế biển nước ta hướng ra biển và làm giàu từ biển.
Để thực hiện thành công Chiến lược này, khoa học công nghệ đóng một vai trò
quan trọng, phải đi trước một bước, phát hiện các vấn đề, tìm kiếm giải pháp đổi
mới, xây dựng mô hình thí điểm và áp dụng vào thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu
của khoa học địa lý nhân văn mở ra các cơ hội quan trọng cho sự phát triển của
các ngành, lĩnh vực, đóng góp đáng kể cho sự phát triển bền vững của các quốc
gia và thế giới. Các nghiên cứu địa lý nhân văn trong thực hiện Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển góp phần nhận diện các
vấn đề, thách thức trong phát triển kinh tế biển và các biện pháp giải quyết
các thách thức dưới cách tiếp cận khoa học địa lý.
Nghề cá biển được xác
định là một trong 6 ngành kinh tế biển chủ đạo cùng với du lịch biển, dầu khí,
hàng hải, công nghiệp, năng lượng và các ngành kinh tế biển mới, trong Chiến lược
về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045.
Tiến sỹ Cao Lệ Quyên,
Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho
biết, nghề cá biển nước ta gồm 3 lĩnh vực chủ chốt là ngư nghiệp, ngư dân và
ngư trường có các đặc trưng cơ bản như: Đa nghề, đa ngư cụ, số lượng ngư dân đông,
có truyền thống cần cù, chịu khó, kinh nghiệm khai thác thủy sản lâu năm trên
ngư trường biển rộng lớn với nguồn lợi thủy sản đa dạng, phong phú. Nghề cá biển
có tỷ trọng đóng góp trong tổng GDP ngành nông, lâm, ngư nghiệp khoảng 7,8 -
9,7% và GDP chung toàn quốc 1,3 - 1,4% theo giá hiện hành (năm 2019). Mặc dù vậy,
nghề cá nước ta đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình chuyển đổi
từ thủ công, tự phát, tiếp cận tự do sang có trách nhiệm và bền vững.
Để nâng cao vai trò của
nghề cá biển trong giai đoạn tới, Tiến sỹ Cao Lệ Quyên cho rằng, Việt Nam cần tập
trung vào một số giải pháp như: Xây dựng một ngành khai thác hải sản phát triển
toàn diện theo hướng hiện đại và bền vững, có trách nhiệm, tập trung vào
việc kiểm soát khai thác như cắt giảm số lượng tàu, thuyền. Ngoài ra, Việt Nam
cần thực thi hiệu quả các chính sách, pháp luật về bảo vệ và gìn giữ ngư trường;
bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản bền vững; đảm bảo an ninh, an toàn trên
ngư trường biển trong quá trình khai thác hải sản; đổi mới cơ chế, chính sách,
huy động nguồn lực phục vụ đầu tư phát triển khai thác hải sản hiện đại, đồng
thời cải thiện điều kiện kinh tế-xã hội các vùng nông thôn ven biển, hải đảo.
Bên cạnh đó, tài
nguyên vị thế là những lợi ích to lớn hiện vẫn là vấn đề mới không chỉ đối với
Việt Nam, mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Lấy ví dụ thực tế đối với
trường hợp khu vực cửa Đáy, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, Tiến sỹ Phạm Thị Trầm,
Viện Địa lý nhân văn - Viện Hàn lâm Khoa học và xã hội Việt Nam cho rằng, với
những lợi thế về địa tự nhiên và địa kinh tế, khu vực này cần kết hợp khai thác
theo định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định
nhiệm vụ trọng tâm của nước ta là "Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên,
môi trường biển”.
Để thực hiện hiệu quả
việc khai thác bền vững tài nguyên vị thế khu vực cửa sông, điển hình là khu vực
cửa Đáy, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, Tiến sỹ Phạm Thị Trầm cho rằng, trước hết
nhà nước cần hoàn thiện về thể chế, quy hoạch. Cụ thể, tỉnh Ninh Bình cần sớm
công bố quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết vùng bãi bồi; huyện Kim Sơn
nghiên cứu, đề xuất với tỉnh Ninh Bình, với Trung ương thực hiện một số cơ chế,
chính sách ưu đãi phù hợp những nét đặc thù, khó khăn của địa phương để đẩy mạnh
phát triển kinh tế biển. Ngoài ra, tỉnh Ninh Bình cần tăng cường huy động nguồn
vốn tài chính như: Thu hút nguồn lực đầu tư theo hình thức xã hội hóa phát triển
du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển; thu hút đầu tư nuôi trồng thủy hải sản.
Cùng với đó, tỉnh Ninh
Bình cần có cơ chế giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp chuyển nhượng đầm bãi
trái quy định của pháp luật; khai thác tài nguyên trái phép; quan tâm tới bảo vệ
môi trường, đa dạng sinh học; tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân;
khuyến khích và hỗ trợ các dự án nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học được thực
hiện trên địa bàn.
Nhằm hỗ trợ đắc lực
cho Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển trong bối cảnh hội nhập quốc tế
và "Mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phát triển kinh tế -
xã hội, theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Vũ Thanh Ca, Trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội, Việt Nam cần tiếp tục kiểm tra, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách về phát triển kinh tế biển theo
hướng phát triển bền vững, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với
luật pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đặc biệt là thực hiện Luật
Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, đảm bảo sử dụng hợp lý, hiệu quả tài
nguyên, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái biển và hải đảo; bảo đảm tài
nguyên biển và hải đảo được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả,
bền vững; thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tổng hợp, đồng bộ về tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo, phục vụ phát triển kinh tế biển nói riêng,
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an
ninh nói chung.
Ngoài ra, Việt Nam cần
đẩy mạnh việc khai thác khoáng sản ở biển sâu nhằm đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu
khoáng sản kim loại và năng lượng ngày một gia tăng của nền kinh tế đang phát
triển; tăng cường đầu tư trang thiết bị, công nghệ phục vụ nghiên cứu khoa học,
điều tra, khảo sát và các hoạt động của nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò, khai
thác khoáng sản, đặc biệt là các khoáng sản biển sâu, các bể trầm tích mới; gắn
việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí với điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng các
tài nguyên, khoáng sản biển khác,
khoáng sản biển sâu.
Đồng thời, Việt Nam cần
xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển
có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại theo mô hình, tiêu
chí tăng trưởng xanh, đô thị thông minh và từng bước hình thành khu kinh tế,
khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển; đẩy mạnh việc đầu tư hạ tầng
phát triển du lịch và dịch vụ biển, khuyến khích cho các thành phần kinh tế
tham gia phát triển du lịch sinh thái, du lịch các đảo, vùng biển xa bờ, phát
huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết
nối với các tuyến du lịch quốc tế để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế
giới.
Theo Tiến sỹ Nguyễn
Văn Sỹ, Phó Giám đốc Ban quản lý dự án phát triển nông thôn bền vững vì người
nghèo (DSRP) thuộc UBND tỉnh Quảng Bình, Việt Nam cần bảo vệ môi trường, bảo tồn,
phát triển bền vững đa dạng sinh học biển, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
nước biển dâng và phòng, chống thiên tai; mở rộng quy hoạch không gian biển quốc
gia, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển; chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học,
phục hồi các hệ sinh thái… Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường quốc phòng, an
ninh và đảm bảo đời sống an toàn cho dân cư vùng ven biển, trên đảo và những
người lao động trên biển. nâng cao nhận thức về biển và đại dương, xây dựng xã
hội, ý thức, lối sống, hành vi văn hóa gắn bó, thân thiện với biển; phát huy
tinh thần tương thân, tương ái của cộng đồng dân cư vùng biển, ven biển; bảo đảm
quyền tiếp cận, tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với biển một
cách công bằng, bình đẳng.
Đồng thời, nước ta cần tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các nước bạn bè truyền thống, các nước có tiềm lực về biển, các nước có chung lợi ích trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và phù hợp với luật pháp quốc tế; tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là các hoạt động hợp tác biển trong khuôn khổ ASEAN.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét