Home » hoptacdoingoai
Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018
Bức tranh đẹp về quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản
Việt
Nam và Nhật Bản cùng nằm ở châu Á - Thái Bình Dương. Sự tin cậy về chính trị, sự
tương đồng về văn hóa giữa hai dân tộc cũng như những thành quả đầy ấn tượng của
hợp tác trong suốt hơn 40 năm qua là nền tảng vững chắc và động lực mạnh mẽ để
đưa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục phát triển lên một tầm cao mới, hướng
tới tương lai của mối quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng.
Kể
từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật
Bản không ngừng được củng cố và phát triển với nội dung hợp tác ngày càng sâu rộng.
Hai nước đã thiết lập khuôn khổ quan hệ Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài nhân
chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi tháng 4/2002. Nhật
Bản là nước đầu tiên trong các nước G7 thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với
Việt Nam. Trong chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
tháng 4/2009, hai nước nhất trí nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác chiến lược
vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á.
Tháng
10/2010, hai nước ra Tuyên bố chung Việt Nam - Nhật Bản về Phát triển toàn diện
quan hệ Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á, nhân chuyến thăm
Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan.
Đặc
biệt, trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang tháng 3/2014, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác chiến lược
sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á.
Trong
chuyến thăm chính thức Nhật Bản tháng 9/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã ra Tuyên bố về tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam
- Nhật Bản.
Trong
những năm qua, quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Nhật Bản được củng cố và tăng
cường, ngày càng đi vào thực chất, trên cơ sở lợi ích chiến lược tương đồng.
Quan hệ hai nước đang ở giai đoạn tốt nhất trong lịch sử kể từ khi thiết lập
quan hệ ngoại giao và có sự tin cậy cao. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường
xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Thủ tướng
Nhật Bản Shinzo Abe đã chọn Việt Nam là nước đầu tiên đến thăm sau khi nhậm chức
nhiệm kỳ 2 vào tháng 1/2013 và là lãnh đạo đầu tiên trong các nước G7 mời Thủ
tướng Chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng.
Hợp
tác giữa hai Quốc hội được tăng cường thông qua trao đổi đoàn cấp cao và giữa
các Ủy ban chuyên môn. Nhóm Nghị sĩ Hữu nghị Việt - Nhật và Liên minh Nghị sĩ Hữu
nghị Việt - Nhật duy trì thường xuyên tiếp xúc và hợp tác tích cực, hiệu quả.
Hai
bên cũng duy trì hiệu quả các cơ chế đối thoại như Ủy ban Hợp tác Việt - Nhật
do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch từ năm 2007, Đối thoại Đối tác
chiến lược Việt-Nhật về ngoại giao-an ninh - quốc phòng cấp Thứ trưởng Ngoại
giao từ năm 2010, Đối thoại chính sách quốc phòng Việt - Nhật cấp Thứ trưởng từ
năm 2012 và Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng từ năm 2013.
Việt
Nam và Nhật Bản ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc
(LHQ), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu
Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), Hội đồng Nhân quyền
LHQ... Việt Nam ủng hộ Nhật Bản vào Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo
an LHQ nhiệm kỳ 2016-2017.
Nhật
Bản hiện là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu
tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011). Nhật Bản
xác định quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam là trọng tâm trong việc thúc đẩy
quan hệ hai nước.
Trong
hợp tác thương mại, Việt Nam và Nhật Bản đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc
từ năm 1999 và ký hiệp định Đối tác kinh tế vào tháng 10/2009, tạo khuôn khổ
pháp lý thuận lợi cho tăng cường quan hệ thương mại giữa hai nước. Năm 2015, Nhật
Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam với kim ngạch thương mại song
phương đạt 28,526 tỷ USD. Tính đến tháng 11/2016, kim ngạch thương mại hai nước
đạt 26,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 13,21 tỷ USD
(tăng 2,7% so với cùng kỳ 2015), nhập khẩu đạt 13,6 tỷ USD (tăng 3,3%).
Về
đầu tư, hai bên đã ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư vào tháng
12/2004. Tính đến tháng 11/2016, Nhật Bản có 3.242 dự án đầu tư còn hiệu lực tại
Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 42,016 tỷ USD và 296 dự án cấp mới, 195 dự
án tăng vốn với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,95 tỷ USD, đứng
thứ hai trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (sau
Hàn Quốc).
Về
viện trợ phát triển chính thức (ODA), Nhật Bản là nước viện trợ ODA lớn nhất
cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với
Việt Nam. Từ năm 1992 đến hết tài khóa 2015, Nhật Bản đã viện trợ khoảng 29,5 tỷ
USD cho Việt Nam. Riêng trong năm tài khóa 2015, Nhật Bản cam kết vốn vay ODA
cho Việt Nam hơn 310,08 tỷ Yen (khoảng 2,5 tỷ USD), mức cao nhất từ trước đến
nay. Giải ngân ODA của Việt Nam (không kể các khoản vay chương trình hỗ trợ
ngân sách) đạt 22%, tương đương 147 tỷ Yen, đứng thứ 2 (sau Ấn Độ) trong số các
nước sử dụng ODA vốn vay Nhật Bản.
Nhiều
dự án của Nhật Bản đã hoàn thành và đưa vào khai thác rất hiệu quả, đóng góp lớn
vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Điển hình gần đây có ba dự án
hạ tầng lớn ở Thủ đô Hà Nội gồm cầu Nhật Tân, đường nối cầu Nhật Tân với Sân
bay Quốc tế Nội Bài, Nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, đều được đầu tư
bằng nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng trong nước. Ba công
trình này được khánh thành và đưa vào sử dụng đầu năm 2015, đóng vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, du lịch của Thủ đô và cả nước.
Ngoài
ra, Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ Việt Nam phát triển công nghiệp trong khuôn
khổ Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam -
Nhật Bản đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
Hợp
tác nông nghiệp có bước đột phá từ năm 2014. Hai bên đã ký kết Tầm nhìn trung
và dài hạn trong hợp tác nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản nhân chuyến thăm chính
thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 9/2015.
Trong
lĩnh vực du lịch, năm 2016, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam đạt
740.592 lượt, tăng 10,3% so với năm 2014, đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Hàn Quốc).
Số khách du lịch Việt Nam đến Nhật Bản năm 2015 là 185.400 lượt; 11 tháng năm
2016 đạt 220.700 lượt, tăng 26,1%.
Tình
hữu nghị đã khơi nguồn cho các hoạt động tương trợ, giúp đỡ giữa Việt Nam và Nhật
Bản trong nhiều lĩnh vực trong đó có hợp tác lãnh sự, giáo dục, đào tạo nguồn
nhân lực, lao động, ứng phó với biến đổi khí hậu, giao lưu địa phương.
Về
hợp tác lãnh sự, theo thống kê của Bộ Tư pháp Nhật Bản, đến tháng 12/2016, tại
Nhật Bản có 124.820 người Việt Nam và tại Việt Nam có khoảng 13.500 người Nhật
Bản. Nhật Bản đã mở Tổng lãnh sự quán tại TP. Hồ Chí Minh (tháng 3/1997) và Việt
Nam mở Tổng Lãnh sự quán tại thành phố Osaka (tháng 3/1997) và thành phố
Fukuoka (4/2009). Tháng 6/2010, Việt Nam bổ nhiệm hai Tổng Lãnh sự danh dự tại
thành phố Nagoya và thành phố Kushiro.
Từ
ngày 1/1/2004, Việt Nam miễn thị thực cho công dân Nhật Bản du lịch và kinh
doanh tại Việt Nam trong vòng 15 ngày và từ ngày 1/7/2004, quyết định miễn thị
thực nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản. Ngày 8/3/2005,
Việt Nam và Nhật Bản đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân
hai nước mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá
90 ngày bắt đầu thực hiện từ 1/5/2005.
Nhật
Bản bắt đầu thực hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần từ ngày
30/9/2014 và nới lỏng hơn từ ngày 15/2/2016 và thị thực một lần từ ngày
20/11/2014 cho công dân Việt Nam.
Hợp
tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức. Nhật
Bản là một trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục
đào tạo của Việt Nam. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực hợp
tác giáo dục. Số lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện nay là 38.882 người.
Nhật Bản đang hợp tác để nâng cấp 4 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất
lượng cao (Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học
Nông nghiệp Hà Nội); đang hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt - Nhật nhằm đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ,
quản lý và dịch vụ; hỗ trợ Việt Nam dạy tiếng Nhật tại một số trường phổ thông
cơ sở tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Về
hợp tác lao động, từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử nhiều tu nghiệp sinh sang
Nhật Bản. Hiện có khoảng hơn 45.000 lao động, thực tập sinh Việt Nam tại Nhật Bản
trong các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc
Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định
đối tác kinh tế song phương EPA tháng 10/2011, đợt đầu tiên gồm 138 y tá và điều
dưỡng viên, đợt hai gồm 137 người đã sang Nhật Bản.
Hợp
tác ứng phó với biến đổi khí hậu phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc Nhật Bản
liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó với biến đổi khí
hậu của Việt Nam. Trong chuyến thăm Nhật Bản và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7
mở rộng của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào tháng 5/2016, Thủ tướng Abe đã công
bố hỗ trợ khẩn cấp không hoàn lại 2,5 triệu USD để ứng phó với tình trạng hạn
hán, xâm nhập mặn và cho biết Nhật Bản sẽ nghiên cứu hỗ trợ Việt Nam ứng phó với
biến đổi khí hậu trong trung và dài hạn. Bên cạnh đó, trước thực trạng môi trường
ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, Nhật Bản cũng đã triển khai hỗ trợ Việt Nam cải
thiện môi trường đô thị một cách có hệ thống.
Hợp
tác địa phương giữa Việt Nam và Nhật Bản cũng được thúc đẩy mạnh mẽ, nhiều địa
phương của hai nước đã ký văn bản hợp tác như TP. Hồ Chí Minh - Osaka (năm
2007), Đà Nẵng - Sakai (năm 2009), Hà Nội - Fukuoka, Đà Nẵng - Yokohama, TP. Hồ
Chí Minh - Yokohama, Đồng Nai - Hyogo, Bà Rịa - Vũng Tàu - Kawasaki (năm 2013),
Phú Thọ - Nara, Huế - Kyoto (năm 2014), Hưng Yên - Kanagawa, Hải Phòng -
Niigata và Nam Định - Miyazaki (năm 2015).
Những
thành công mà Việt Nam và Nhật Bản đã đạt được là những mốc quan trọng góp phần
củng cố và phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng, đáp ứng
mong muốn và lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình, hợp tác và phát triển
của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét