Home » biendao
Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2020
Những năm Kỷ Hợi liên quan đến biển, đảo của Tổ quốc
Năm
Kỷ Hợi 759: Quân Chà Và từ biển vào cướp phá Ái Châu (Thanh Hóa, Ninh Bình ngày
nay), bị Kinh lược sứ nhà Đường Trương Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Chà Và
lại từ biển cướp phá Ái Châu, xây cả thành, lập nước, nhưng bị quan cai trị là
Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì.
Năm
Kỷ Hợi 939: Sau chiến thắng Bạch Đằng Giang lịch sử năm 938, năm 939, Ngô Quyền
xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), mở đầu thời kỳ độc lập và phát
triển của dân tộc Việt Nam.
Năm
Kỷ Hợi 1299: Một sứ bộ của ta sang Nguyên, do Đặng Nhữ Lâm dẫn đầu đã bí mật
làm một số việc rất quan trọng. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép:
“Nhà vua sai Đặng Nhữ Lâm sang giao hảo với nhà Nguyên, khi Nhữ Lâm đến kinh đô
nhà Nguyên, bí mật làm những việc sau này: Vẽ đồ bản cung điện và vườn tược;
Đem riêng trong mình bản đồ địa dư và sách đã bị cấm; Ghi chép vào sổ riêng những
núi rừng và tình hình quân sự ở Bắc phương”.
Cũng
năm này, khi vua Trần Anh Tông đủ trưởng thành, vua Trần Nhân Tông chính thức
xuất gia tu hành khổ hạnh tại đỉnh Tử Tiêu, trên núi Yên Tử (Quảng Ninh). Theo
sách Trúc Lâm tôn chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm thì Yên Tử sơn là nơi có một
vị trí quân sự quan trọng, là vọng gác tiền tiêu của Tổ quốc. Trần Nhân Tông
khoác áo cà sa đến đây tu hành là để làm nhiệm vụ của một người “lính biên
phòng”.
Sách
trên có đoạn viết: “Mọi người thấy đức Điều Ngự là Tổ thứ nhất khi ra ở chùa
Hoa Yên (tức chùa Yên Tử) thì cho là ngài xuất gia, nhưng có biết đâu đương lúc
bấy giờ đức Tổ ta biết lấy thiên hạ làm của công... Xét thấy Yên Tử là một ngọn
núi cao, phía Đông có thể nhòm mặt tỉnh Yên, tỉnh Quảng; phía Bắc có thể trông
tới Lạng Sơn, Lạng Giang, nên mới dựng tự viện, thường qua lại xem chuyện động
tĩnh, khiến cho quân giặc ở ngoài không thể gây những việc đáng lo ngại...”.
Năm
Kỷ Hợi 1719: Từ năm 1719 đến năm 1786, Pierre Poivre, một giáo sĩ kiêm thương
nhân người Pháp, đã nhiều lần qua lại quần đảo Hoàng Sa và sau này ghi lại
trong tác phẩm Mô tả xứ Đàng Trong 1749: “...Tôi nghe nói hàng năm nhà vua
(chúa Nguyễn) thường cho vài chiếc thuyền ra Hoàng Sa để tìm kiếm những báu vật
tự nhiên cho bộ sưu tập của mình...”.
Năm
Kỷ Hợi 1839: Vua Minh Mệnh đã dự đoán chính xác một đợt mưa lụt lớn diễn ra tại
Kinh đô Huế. Lúc bấy giờ, Vua ra coi chầu, nói với Kinh doãn là Phạm Thế Trung:
Ngạn ngữ nói “Trời sắp mưa lụt, cứ nghiệm các giống chim trở về núi thì biết”.
Xét ra mưa lụt thì sóng biển nổi lên ầm ì, hơi nước bốc lên tanh hôi, các chim
đều kiếm ăn ở bờ biển, cho nên tránh về núi... Trẫm đoán mùa thu này mưa lụt có
thể vào trước sau ngày 24, 25...”. Quả nhiên, mấy hôm sau thì có mưa.
Vua
Minh Mệnh cũng rất quan tâm đến tàu thuyền của phương Tây. Sách Quốc triều
chánh biên toát yếu của Quốc Sử quán triều Nguyễn có ghi lại: Tháng 4 năm Kỷ Hợi
(1839), ngài ngự chơi cầu Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu chạy máy hơi. Khi trước Sở
Võ khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đường vỡ nồi nước, máy không chạy,
người đốc công bị xiềng, quan bộ Công là Nguyễn Trung Mậu, Ngô Kim Lâu, vì cố
tâu không thật đều bị bỏ ngục. Bây giờ chế tạo lại, các máy vận động lanh, thả
xuống nước chạy mau, ngài ban thưởng người giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy
Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn.
Đốc công và binh tượng được thưởng chung 1.000 quan tiền. Ngài truyền rằng:
“Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn cho công tượng nước ta tập quen máy
móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì”. Tháng 10, lại chế thêm một chiếc
tàu máy lớn, phí tổn hơn 11.000 quan tiền. Ngài truyền bộ Hộ rằng: “Ta muốn
công tượng nước ta đều biết tập nghề máy móc, vậy nên không kể phí tổn” .
Thậm
chí vua Minh Mệnh còn ra lệnh tham khảo các tài liệu phương Tây để soạn sách dạy
thủy chiến, bản đồ thủy chiến sau đó cho quân lính thao diễn, luyện tập. Nhà
vua còn truyền bảo với Binh bộ thượng thư Trương Đăng Quế rằng: “Trẫm muốn các
ngươi trù tính kỹ càng, làm thành quyển sách thủy chiến, giao cho quân lính
ngày đêm học tập, đó mới là cách phòng bị trước khi có việc”.
Vua
Minh Mệnh còn căn dặn: “Bờ cõi nước ta, chạy dài ven biển, phái quân đi tuần bể,
có nhiều đường ngách, hoặc phải bỏ thuyền mà đánh trên bộ, hoặc phải dời dinh
mà vây dưới nước. Như thế thời bộ binh cần phải biết cách đánh dưới nước, thủy
binh cũng cần phải biết cách đánh trên bộ, cần dụ các viên Thống quản ở kinh sức
cho quân lính dưới quyền, cố gắng diễn tập sao cho hết thảy đều tinh, nên người
quân mạnh”.
Trước
sự lớn mạnh của đất nước, năm 1839, vua Minh Mệnh cho đổi tên nước từ Việt Nam
thành Đại Nam, tức quốc gia rộng lớn hùng mạnh phương Nam.
Năm
Kỷ Hợi 1899: Lúc này nước ta đã bị thực dân Pháp đô hộ và công cuộc khai thác
thuộc địa được đẩy mạnh. Vào năm này, Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ
Pháp xây ngọn hải đăng tại quần đảo Hoàng Sa, nhưng việc này không thành vì lý
do tài chính. Mặc dù vậy, đến cuối năm, Công ty Vận tải đường biển của Pháp xây
cất bến tàu tại Sở Canh Tân tàu biển (tức khu vực Bến Nhà Rồng sau này) để tàu
cập bến. Bến được lót bằng ván dày, đặt trên trụ sắt dọc theo mé sông. Bề ngang
của mỗi bến vào phía trong bờ 8m, chỉ vừa đủ cho tàu ra vào.
Năm
Kỷ Hợi 1959: Ngày 19-5, Đoàn vận tải quân sự 559 được thành lập. Ngày đầu, lực
lượng nòng cốt gồm có 2 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 301 và Tiểu đoàn 603. Tiểu đoàn Vận
tải thủy 603 có nhiệm vụ mở đường trên biển vận chuyển vũ khí, hàng hóa và con
người chi viện cho miền Nam. Tiểu đoàn 603 do đồng chí Hà Văn Xá làm Tiểu đoàn
trưởng; Thượng úy Lưu Đức làm Chính trị viên. Tiểu đoàn đóng quân ở xã Thạch Trạch,
Bố Trạch, Quảng Bình, bên bờ sông Gianh. Để giữ bí mật, tiểu đoàn hoạt động dưới
tên gọi “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”.
Cuối
năm 1959, mọi công tác chuẩn bị cho chuyến vượt biển đầu tiên đã hoàn tất. Đây
là bước đi đầu tiên để làm nên con đường huyền thoại trên Biển Đông mang tên Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình tồn tại, đường Hồ Chí Minh trên biển, có
hai nghìn lần tàu thuyền vượt biển, vận chuyển gần 160 nghìn tấn vũ khí, cập 19
bến bãi thuộc địa bàn 9 tỉnh miền Nam, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối
cùng.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét