Home » thoisu
Thứ Ba, 19 tháng 5, 2020
Hồ Chí Minh - Nguồn cảm hứng bất tận
Hồ
Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, Anh hùng giải
phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam và thế giới. Ở Người,
có sự hội tụ, kết hợp và phát huy đến mức cao nhất, hoàn mỹ nhất tinh hoa văn
hóa dân tộc và thời đại, phương Đông và phương Tây, cổ và kim, trí dũng và nhân
văn, vĩ đại và giản dị, khiêm nhường. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Người cũng là nguồn cảm hứng chưa bao giờ ngưng nghỉ của các
nhà văn, nhà thơ, nhà báo, các nghệ sỹ ở nhiều loại hình báo chí và nghệ thuật
khác nhau..
Chủ
tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, gắn bó mật
thiết với nhân dân lao động. Quê hương xứ Nghệ của Người, suốt mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc, luôn là đất phên dậu, là “thành đồng ao nóng của
nước và là then khóa của các triều đại”. Truyền thống vẻ vang của quê hương và
gia đình ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ đến tuổi ấu thơ của Bác, đến việc hình
thành nhân cách, tư tưởng, đạo đức của Bác.
Sau
này, vượt trùng khơi tìm đường cứu nước, được hoà mình trong phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc; gia nhập
Đảng xã hội Pháp và là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; tiếp xúc, đón nhận
chủ nghĩa Mác - Lê nin và ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga; thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển truyền thống văn hoá, yêu nước
và cách mạng của dân tộc, của quê hương lên tầm cao mới: chủ nghĩa yêu nước
mang nội dung nhân bản sâu sắc; giải phóng dân tộc đi liền với giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; đề cao con người là nhân tố quyết
định của lịch sử; cách mạng dân tộc, dân chủ tất yếu phải phát triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa; sức mạnh dân tộc phải gắn liền với sức mạnh thời đại.
Người
đặc biệt coi trọng nhân dân, đề cao “dân là gốc”, “là người chủ” của cách mạng,
của đất nước, là người tạo nên lịch sử. Tư tưởng yêu nước thương dân, quý trọng
con người; chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; đạo đức trong sáng,
cao cả, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn; phong cách bình dị, gần gũi, khiêm tốn,
lão thực…Tất cả những điều ấy là di sản tư tưởng và văn hóa quý giá mà Người để
lại cho đất nước, cho nhân dân và cho cả nhân loại.
Ngày
5/6/1911, tại bến cảng Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
trong tên mới Văn Ba xuống con tàu biển mang tên Đô đốc Latouche Tresville sang
phương Tây, như sau này Người kể lại “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp
và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng
bào ta”[2].
Ở
Pháp, Người cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường gửi “Yêu sách của nhân dân An
Nam” đến Hội nghị Véc-xây (1919); viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1920); bỏ
phiếu tán thành Quốc tế thứ Ba (Quốc tế Cộng sản), trở thành một trong những
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Năm
1922, Người sáng lập báo “Người cùng khổ” (Le Paria), ngay bài viết cho số đầu
tiên, Người khẳng định sứ mệnh tờ báo là “giải phóng con người”. Hơn 10 năm ở
trời Tây, vừa vất vả lao động kiếm sống, vừa đau đáu tìm kiếm con đường cứu nước,
cứu dân, Nguyễn Ái Quốc nhận rõ một sự thật đầy đau xót, căm hận: chính chủ
nghĩa tư bản, bè lũ đế quốc thực dân là những kẻ gây ra mọi áp bức, bóc lột,
đau khổ cho công nhân, nông dân và các tầng lớp khác ở các thuộc địa và ở ngay
cả chính quốc. Người nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải
là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ Ba. Qua
hoạt động yêu nước, tìm đường đi cho dân tộc, Người hiểu rõ, chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.”[3] Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến
với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tiếp thu Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc
địa của V.I. Lê-nin. Sự gặp gỡ, tiếp xúc lịch sử ấy hoàn toàn không phải là ngẫu
nhiên hay may mắn, đó là một sự dấn thân, sự chủ động chọn đường, một tất yếu
khách quan mang tính khoa học và cách mạng.
Trước
chuyến đi của Nguyễn Tất Thành - Văn Ba năm 1911, cụ Phan Bội Châu, một người
Nam Đàn là bạn đèn sách, tâm giao với thân phụ của Người chọn con đường đi về
phương Đông, nhưng nước Nhật “đồng chủng”, “đồng cừu” đang xâm lược Trung Quốc,
Triều Tiên, ra lệnh trục xuất chính Phan và các du học sinh Việt Nam yêu nước.
Cải cách của Khang Hữu Vy, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc thất bại, cho thấy
Trung Quốc không thể đi theo con đường Duy Tân của Nhật Bản. Cách mạng Tân Hợi
(1911) của Tôn Văn tuy lật đổ được ngai vàng đế chế, nhưng đã không cởi bỏ được
quyền chiếm hữu ruộng đất và ách bóc lột của địa chủ phong kiến, ách nô dịch của
đế quốc tư bản nước ngoài. Nhiều trí thức Việt Nam đương thời cũng sang Pháp,
có người chỉ lo học hành, kiếm sống, làm giàu; có người vừa học chữ, vừa tìm đường
cứu nước, cứu dân. Cụ Phó bảng Phan Chu Trinh và Luật sư, tiến sĩ Phan Văn Trường
tiêu biểu cho nhóm thứ hai. Tuy nhiên, sống và hoạt động ở Pháp nhiều năm, từng
tiếp xúc với các lực lượng cánh tả Pháp, vậy mà các ông vẫn không tìm được con
đường đúng đắn giải phóng dân tộc, giải phóng cần lao; không đến được với chủ
nghĩa Mác - Lê nin như Nguyễn Ái Quốc.
Theo
báo cáo của Trung ương Đảng Xã hội Pháp thì năm 1913 đã có 7 người Việt Nam vào
Đảng Xã hội Pháp, năm 1919 có 80 người Việt Nam tham gia Đảng này, nhưng đến
năm 1920 chỉ còn 20 người, duy chỉ có Nguyễn Ái Quốc (vào Đảng Xã hội Pháp năm
1918) trở thành người cộng sản [4]. Chính Phan Châu Trinh, trong một bức thư đề
ngày 18 tháng 2 năm 1922 gửi từ Mác-xây cho Nguyễn Ái Quốc đang ở Pa-ri, đã viết:
“Thân tôi tựa như chim lồng, cá chậu…Cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá
gia vong, mà hơi tàn cũng phải gào cho hả, may ra có tỉnh giấc hồn mê”. Cụ Phan
ví Nguyễn Ái Quốc “như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hành, lý
thuyết tinh thông…không bao lâu nữa cái chủ nghĩa anh tôn thờ sẽ thâm căn cố đế
trong đám dân tình, chí sỹ nước ta”.
Giữa
năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô. Trên đất nước của
Lê-nin, Người dày công học tập, nghiên cứu mong có ngày trở về Tổ quốc để giải
phóng nước mình, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Nhà thơ Liên Xô Ô-xíp
Man-đen-xtam đã gặp Nguyễn Ái Quốc vào thời điểm đáng nhớ đó và có bài viết về
Người: “Từ Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải là văn hoá châu Âu
mà có lẽ là nền văn hóa của tương lai”… “Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giản dị
và lịch sự. Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi
thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn
thế giới bao la như đại dương”[6]. Mấy chục năm sau, tại thủ đô Mat-xcơ-va của
nước Nga, quảng trường mang tên Hồ Chí Minh do chính quyền và nhân dân Ngay xây
dựng. Ở đó, có tượng đài Hồ Chí Minh với dòng chữ bất hủ “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Trường Đại học Tổng hợp của thành phố Xanh Pê-tec-bua có Học viện Hồ
Chí Minh, chuyên nghiên cứu về Hồ Chí Minh và lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng có những năm tháng hoạt động trên đất nước Trung Quốc. Giữa
thập niên hai mươi của thế kỷ trước, Người đến Quảng Châu và mở các lớp đào tạo
cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. Ngôi nhà số 13 (nay là số 248-250) đường
Văn Minh được Người chọn làm Trụ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Hơn
15 năm sau, Người có chuyến đi đến Quảng Tây và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch
bắt giam. Cuốn “Nhật ký trong tù” ra đời trong hoàn cảnh ấy “Quảng Tây giải khắp
mười ba huyện/ Mười tám nhà lao đã trải qua”…,.. “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần
ở ngoài lao/ Muốn nên sự nghiệp lớn/ Tinh thần càng phải cao”. Ngày cũng như
đêm, Người luôn đau đáu “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”… Càng về sau, các
tác phẩm chính luận, báo chí, văn nghệ của Bác càng được công chúng trong và
ngoài nước đánh giá rất cao cả về tính tư tưởng, tính nhân văn và nghệ thuật.
Đó là các tác phẩm khởi đầu viết bằng tiếng Pháp “Bản án chế độ thực dân Pháp”,
các truyện ngắn đăng trên báo “Người cùng khổ”, tiếp đó là “Đường Kách mệnh”,
“Nhật ký chìm tàu”. Đặc biệt là tập thơ “Nhật ký trong tù” và hai áng hùng văn
“Tuyên ngôn Độc lập”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” đã trở thành bất hủ.
Tập
thơ “Nhật ký trong tù” được Bác Hồ viết bằng chữ Hán gồm 133 bài theo thể Đường
luật trong thời gian Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng
Tây, Trung Quốc, từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943. Trong tập thơ này,
Người nêu một tuyên ngôn có tính định hương cho thơ nói riêng, văn học, nghệ
thuật nói chung “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung
phong”. Người truyền sức mạnh, niềm tin, sự lạc quan cho những ai đang trong cảnh
nguy nan, khốn khó "Đi đường mới biết gian lao/ Núi cao rồi lại núi cao trập
trùng/ Núi cao lên đến tận cùng/ Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non".
Ngày 10 tháng 12 năm 1951, Người viết thư gửi các họa sĩ nhân dịp Triển lãm hội
họa kháng chiến ở Việt Bắc. Trong thư, Người khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật
cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Với những người
làm báo, Bác Hồ là người sáng lập, người thầy của nền báo chí cách mạng Việt
Nam. Người căn dặn các nhà báo: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây
bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ” .
Trong
cuốn sách “Những mẩu chuyện về về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”, tác giả
Trần Dân Tiên kể: “ Có người hỏi Nguyễn Ái Quốc: Ông là người thể nào ? Người cộng
sản hay người theo chủ nghĩa Tôn Dật Tiên ? Sau khi giải thích, Nguyễn Ái Quốc
khẳng định: “Khổng Tử, Jê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó
sao ! Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu
hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất
định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết”.
Tư
tưởng đại đoàn kết, nhân ái, khoan dung, nhân văn ấy của Hồ Chí Minh làm rung động
con tim nhiều quốc gia, dân tộc, giai tầng, tôn giáo. Những dòng tên thân yêu
“Hồ Chí Minh”, “Bác Hồ” được quen gọi ở nhiều nước. Trong chuyến thăm hữu nghị Ấn
Ðộ lần thứ hai, năm 1958, Bác Hồ được các nhà lãnh đạo và nhân dân Ấn Độ đón tiếp
bằng sự hân hoan và kính trọng đặc biệt. Tại cuộc đồng diễn của hơn ba ngàn thiếu
nhi Ấn Ðộ chào mừng vị Chủ tịch của Việt Nam, các em đồng thanh hô lớn:
"Cha Hồ, cha Hồ !".
Sinh
thời, Chủ tịch Chủ tịch Cuba Phi-đen Cát-xtrô ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Vinh quang đời đời thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tấm gương lớn nhất của người
cách mạng vĩ đại ngày càng được khâm phục, ngưỡng mộ và luôn luôn được yêu mến
không chỉ nhân dân Việt Nam mà còn ở các dân tộc khác trên thế giới”. Nhà thơ
Cuba Phê-lich Pi-ta Rô-đờ-ri-ghết nhận định: “Trong tác phẩm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, người nông dân ở Việt Nam, ở An-gie-ri, ở Tuy-ni-di, ở Công-gô, người
bị áp bức ở quần đảo Ăng-ti-dát hoặc ở “miền Nam già cỗi” của nước Mỹ, đều có một
người nhiệt thành bênh vực mình”. Nhà thơ Cu-ba còn có nhiều bài thơ về Chủ tịch
Hồ Chí Minh, tiêu biểu là hai tác phẩm “Hồ Chí Minh, tên Người là cả một niềm
thơ” và “Thủ đô Hà Nội nhớ Bác Hồ”.
Nhiều
chính khách, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu đến thăm Khu di tích Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Ba Đình, Hà Nội đã cảm phục, dành những lời ca ngợi yêu kính, thân
thương đối với Hồ Chí Minh. Ngài Tổng thống An-giê-ri Áp-đun A-zit Bô-ti-phờ-li-ka
viết: “Chúng tôi tự hào và đánh giá cao sự khiêm nhường, giản dị, thanh cao của
Hồ Chí Minh. Cuộc đời con người vĩ đại này sẽ còn sống mãi, bất diệt trong ký ức
của dân tộc mình. Người còn là nguồn hy vọng và ngọn đuốc cho các dân tộc đang
đấu tranh vì một thế giới hòa bình, công bằng, tự do, tiến bộ và thịnh vượng”.
Ngài
Gien-ni, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Mỹ ca ngợi: “Tuy sống giản dị,
nhưng Người đã để lại một tài sản vô giá cho con cháu, cho nhân dân Việt Nam
anh hùng và cho nhân dân toàn thế giới đang tha thiết một cuộc sống tốt đẹp
hơn: Chủ nghĩa xã hội”. Đại diện Đảng Cộng sản Úc ghi những dòng xúc động: “Như
tất cả những nhà cách mạng vĩ đại chân chính, Hồ Chí Minh là xương, thịt của
nhân dân. Người sống giản dị, khiêm tốn trong sự vĩ đại, một lòng một dạ cống
hiến cho sự nghiệp cao cả: độc lập, tự do cho Việt Nam, con đường cách mạng cho
công nhân và nhân dân bị áp bức lên thế giới”.
Ngài
Xten-ly Ma-bi-đê-la lãnh đạo của Hội đồng Cách mạng Đại hội dân tộc Phi khi
thăm Việt Nam, thăm nơi ở lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một
ngôi nhà đơn sơ, một chiếc giường giản dị. Người sống một cuộc sống vô cùng
khiêm tốn trong lúc chính Người có thể sống như một ông vua. Người luôn xứng
đáng là một tấm gương cho mọi thời đại cách mạng. Đó là một con người suốt đời
hoạt động cho cuộc sống ngày càng tốt hơn, không chỉ cho nhân dân Việt Nam, mà
cho người châu Á, châu Phi, châu Mỹ - Latinh và ở khắp những nơi còn có sự bất
công”.
Bà
Ét giơ Pê-tra-xa, người Chi-lê, viết: "Nơi ở và làm việc của đồng chí Hồ
Chí Minh quả là một bài học lớn đối với tất cả những người cách mạng trên thế
giới. Cuộc sống đơn sơ và giản dị của Người chứng tỏ rằng Người đã vượt lên
trên hết thảy mọi ham muốn vật chất. Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời cho dân
tộc. Chính vì vậy, với dân tộc mình, Người trở nên vĩ đại và đáng yêu. Với các
dân tộc trên thế giới, Người trở thành con người đáng kính và đáng khâm phục”.
Ngài
Tổng thống Ấn Độ Ven-ka-ta-ra-man ca ngợi: “...Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà
đấu tranh giải phóng dân tộc tiêu biểu. Bằng bản lĩnh và tài năng, Người đã
lãnh đạo nhân dân mình tự giải phóng khỏi gông xiềng đế quốc, tạo dựng nên hình
ảnh bất diệt trong trái tim khối óc của những người yêu nước Việt Nam. Người
còn là một người có tinh thần quốc tế chủ nghĩa tuyệt vời: sống hết mình cho niềm
tin cuộc sống của những dân tộc anh em khác, vì những mục đích cao cả của loài
người trên khắp năm châu. Người là nguồn động lực và khát vọng cho tất cả những
ai yêu hòa bình trên thế giới trong mọi thời đại”.
Nữ
nhà báo, nhà văn Pháp Ma-đơ-len Ríp-phô từng đến Việt Nam nhiều lần, ở nhiều
ngày và vinh dự được nhận làm con nuôi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà tặng Bác Hồ
cuốn sách “Ở miền Bắc Việt Nam viết dưới bom” với lời đề tặng: “Kính gửi Bác Hồ
sự đóng góp nhỏ bé nhưng chân thành này vào cuộc chiến đấu của nhân dân Việt
Nam anh hùng với tất cả tấm lòng của cháu”.
Quốc
trưởng Campuchia Nô-rô-đôm Xi-ha-núc viết: “...Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch
sử các dân tộc Đông Dương và các dân tộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ-la-tinh
như là tượng trưng cho cuộc đấu tranh yêu nước giành độc lập dân tộc. Được nhân
dân kính mến, được các bạn hữu khâm phục, được kẻ thù tôn trọng, Người là một
trong những nhân vật hoạt động chính trị và là lãnh tụ cao quý nhất của thế kỷ
này...”.
Giáo
sư H.Din của Trường Đại học Bô-xtơn (Mỹ) viết “Người là một trong những lãnh tụ
vĩ đại của thế kỷ này. Giữa lúc ở nhiều nơi trên thế giới rất cần cách mạng thì
Người đã lãnh đạo hai cuộc cách mạng ở Việt Nam, một cuộc cách mạng nhằm thay đổi
cơ cấu xã hội đã có từ lâu ở Việt Nam, để làm sao cho nhiều người hơn nữa có thể
hưởng những thành quả của xã hội, và một cuộc cách mạng nhằm lật đổ ách thống
trị của nước ngoài, trước đây là Pháp, sau này là Mỹ...”.
Hai
mươi năm trước, nhân kỷ niệm trọng thể 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Tiến sĩ M. Ácmét, Giám đốc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã nói:
“Ít có nhân vật nào trong lịch sử đã trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống
và rõ ràng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số đó”.
Ở
nước Pháp, có khoảng 45 điểm di tích lưu giữ nhiều di tích, tài liệu, hiện vật
quý liên quan đến sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm
1911 đến 1927 và năm 1946. Nổi bật nhất là Ngôi nhà số 9, ngõ Công-poanh, quận
17, Pa-ri. Với việc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người cùng khổ”,
Người đã góp phần thổi một luồng gió mới đến nhân dân các nước bị áp bức, đoàn
kết họ trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc. Ở Cu-ba, tượng đài
Chủ tịch Hồ Chí Minh được đặt tại trung tâm công viên Hòa bình trên Đại lộ 26,
một trong những đại lộ lớn nhất của thủ đô La Ha-ba-na. Công viên này được người
dân gọi trìu mến là công viên Hồ Chí Minh. Tình cảm của nhân dân Lào đối với
Bác Hồ rất thành kính, sâu đậm. Ở tỉnh Sê Kông, trên bàn thờ của hầu hết các
gia đình đều đặt di ảnh Bác Hồ. Mỗi dịp lễ, tết quan trọng, họ đều thắp hương
lên bàn thờ, mong được Bác Hồ phù hộ. Bài hát “Hồ Chí Minh kính yêu muôn đời” của
nhạc sĩ Buangeun Saphouvong là bài hát thường được biểu diễn trong các sự kiện
lớn của hai nước.
Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu ”, nhạc sĩ người
Anh E-van Mác-câu viết bài hát “The ballad of Ho Chi Minh” (Bài ca Hồ Chí
Minh). Bài hát đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở nên thân thuộc với công
chúng nhiều nước. Tập thơ “Nhật ký trong tù” của Bác được dịch ra 35 thứ tiếng
trên thế giới, có nước dịch và tái bản nhiều lần. Trong bài thơ "Hồ Chí
Minh", nhà thơ An-giê-ri Tra-ba-ni Ac-khơ-mét viết: "Tên của Người đồng
nghĩa với danh từ chống đế quốc/ Tên của người cao hơn mây bay/ Tên của Người
cao hơn đại bác/ Tiếng nói của Người dội vang đất nước/ Kêu gọi nhân dân cầm vũ
khí đứng lên”. Nhà thơ Bun-ga-ri Ghê-oóc-ghi Vê-xê-li-nôp viết về Người:
"Một lãnh tụ và một trẻ thơ/ Đã hiểu nhau tự bao giờ/ Chân thành và bền chặt/
Và con tôi cứ tự hào nhắc mãi/ Hai bố con mình hôm ấy/ Đã cùng nói chuyện với Hồ
Chí Minh...". Nhà thơ Đa-giô của In-đô-nê-xi-a ca ngợi Người: "Khi đức
độ đã ngời như ngọc quý/ Thì có nghĩa gì chiếc ghế phủ nhung êm”. Nhân dân Hy Lạp
đề những câu thơ tôn kính dưới bức ảnh Bác Hồ: "Người đã trở thành bất tử/
Người đã đứng vào hàng ngũ/ Những vị anh hùng của đỉnh A-cô-rô-pôn”.
Ở
đất nước của Hồ Chí Minh, từ năm 1945 đến nay, đã ra đời và lan tỏa hàng chục vạn
tác phẩm báo chí, văn, thơ, lý luận, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp
ảnh, múa, kiến trúc, văn nghệ dân gian, văn nghệ các dân tộc thiểu số… về chủ đề
Hồ Chí Minh, hình tượng Bác Hồ, về các tác phẩm báo chí, văn hóa, văn nghệ của
Bác. Nếu muốn kể ra một số tác phẩm xuất sắc khắc họa về Người, thì điều ấy quả
là không dễ khi nhìn lại những đỉnh cao được lập trong 75 năm qua. Học tập và
làm theo lời Bác dạy, trong đời sống báo chí, văn nghệ đã hình thành lớp lớp
nhà báo, nhà văn, nghệ sỹ hăng hái đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh “phò chính,
trừ tà”. Nhiều người lăn lộn ở chiến trường, tham gia các chiến dịch Thu Đông,
Việt Bắc, Biên giới, Điện Biên Phủ…
Trong
số đó có nhiều người đã hi sinh anh dũng như các nhà văn, nhà báo - chiến sĩ
Nam Cao, Trần Đăng, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu… Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, hàng ngàn văn nghệ sĩ đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, đến với tiền
tuyến lớn và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp thống nhất nước nhà,
như các nhà báo, nhà văn Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Sáng, Phan Tứ, Nguyễn
Trung Thành, Trần Hiếu Minh, Phạm Tiến Duật..; có những người đã anh dũng hy
sinh như Lê Anh Xuân, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Trọng Định, Chu Cẩm Phong...;
những liệt sỹ là đạo diễn, quay phim như Lê Văn Bằng, Lê Viết Thế, Nguyễn Như
Dung, Nông Văn Tư...
Về
âm nhạc, có thể kể các tác phẩm “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”, “Biết ơn Cụ Hồ Chí
Minh”, “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người”, “Người là niềm tin tất thắng”, “Bài ca
dâng Bác”, “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó”, “Vào lăng viếng Bác”, “Thăm bến Nhà Rồng”,
“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên, nhi đồng”… Về Mỹ thuật, có thể kể đến họa
sỹ Diệp Minh Châu ở Nam Bộ thời kỳ đầu chống Pháp. Sau khi được nghe Bản Tuyên
ngôn Độc lập của Bác và tốp ca thiếu nhi hát bài "Ca ngợi Hồ Chủ tịch"
của Lưu Hữu Phước, trong cảm xúc dâng trào, người họa sĩ đã lấy dao rạch vào
cánh tay mình để lấy máu vẽ chân dung Bác với ba em bé đại diện cho thiếu nhi Bắc
Trung Nam. Bức huyết họa sau đó đã được gửi ra Việt Bắc, dâng lên Bác Hồ kính
yêu. Một bức huyết họa khác khác ra đời gần cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ của
họa sỹ-chiến sỹ Lê Duy Ứng. Sáng 28-4-1975, khi đoàn quân của Lê Duy Ứng chỉ
cách cửa ngõ Sài Gòn chưa đầy ba mươi cây số thì ông bị thương rất nặng do súng
chống tăng của địch làm hỏng cả hai con mắt. Tỉnh dậy vẫn không nhìn thấy gì,
nghĩ mình khó qua khỏi, người họa sỹ lần mò lấy giấy, dùng ngón tay làm bút, lấy
máu từ vết thương ở mắt của mình làm mực vẽ bức chân dung Bác Hồ trên nền lá cờ
Tổ quốc, cờ Đảng. Bức tranh đặc biệt đó hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Hồ
Chí Minh.
Còn
biết bao câu chuyện ở trong nước và nước ngoài mà ở đó, Hồ Chí Minh là nguồn cảm
hứng, là niềm tin, là ánh lửa, là nguồn sức mạnh to lớn để các dân tộc, mọi con
người vượt lên gian khổ, gông xiềng, bom đạn để giải phóng dân tộc mình, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, vươn tới cuộc sống tự do, dân chủ, công bằng,
ấm no, hạnh phúc, được làm một đất nước độc lập, được làm một con người giản dị,
nhân văn và chân chính.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét