Home » biendao
Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2020
Thách thức và cơ hội đối với việc duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông
BDN
- Các chiến lược gia của thế giới đã khẳng định, “thế kỷ XXI là thế kỷ của Châu
Á - Thái Bình Dương, quốc gia nào muốn đứng chân ở châu Á - Thái Bình Dương thì
nhất thiết phải khống chế được Biển Đông, bởi chiếm cứ được Biển Đông có nghĩa
là chiếm cứ được Tây Thái Bình Dương nói riêng, toàn bộ khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương nói chung”. Với vị trí quan trọng như vậy nên nhiều nước lớn trong
và ngoài khu vực đã đưa Biển Đông vào trong chiến lược hoặc chính sách của
mình. Song, xuất phát từ tham vọng và tính toán lợi ích riêng của từng nước,
nên việc bảo đảm hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông đang đứng trước
nhiều thách thức không nhỏ, trong khi cơ hội hợp tác bắt đầu có sự suy giảm.
Các
chiến lược gia cũng cho rằng, cục diện Biển Đông đang bị chi phối bởi nhiều yếu
tố khách quan và chủ quan, trong đó tập trung vào các yếu tố cơ bản sau: (1)
Chiến lược và chính sách của các bên tranh chấp trực tiếp, trong đó tính chất
phi lý và tham vọng quá mức của Trung Quốc về chủ quyền của họ ở Biển Đông
thông qua yêu sách “đường chín khúc” đã khiến cho các nước nhỏ khác trong khu vực
kịch liệt phản đối và vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2013 là một minh chứng
cho những phản ứng tích cực đó; (2) Từ những tranh chấp chủ quyền và ranh giới
biển ở khu vực, Biển Đông đã và đang trở thành một trong những “tâm điểm” của
cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc; (3) Chủ nghĩa
dân tộc cực đoan gia tăng trong mỗi quốc gia đã làm giảm đi dư địa chính sách của
các chính phủ, đồng thời thúc đẩy tính toán trên cơ sở lợi ích vị kỷ quốc gia;
(4) Các quốc gia ven biển phải đối phó với một loạt thách thức an ninh phi truyền
thống nghiêm trọng, như sự cạn kiệt nguồn cá, ô nhiễm môi trường và sự suy
thoái hệ sinh thái biển, nạn buôn lậu, buôn bán ma túy, cướp biển có vũ trang,
các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, buộc các nước này phải tăng cường thực
thi pháp luật và trong quá trình đó không loại trừ việc sử dụng các biện pháp mạnh
tay và vũ lực quá mức.
Chính
sự tương tác của các nhân tố trên khiến cho tình hình Biển Đông đang thay đổi
theo hướng căng thẳng, rủi ro tiếp tục tăng lên, từ đó tạo ra các thách thức rất
lớn đối với môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông, cụ thể:
Thứ
nhất, nguy cơ xung đột trên Biển Đông ngày càng gia tăng. Nhân tố làm nên nguy
cơ này không ai khác mà chính là Trung Quốc. Theo đó, Bắc Kinh chủ trương: Sử dụng
tổng hợp và linh hoạt các biện pháp chính trị, ngoại giao, kinh tế, quân sự, cả
“cứng” và “mềm”, từng bước giành quyền kiểm soát Biển Đông, lấy Biển Đông làm
“bàn đạp” để mở rộng ảnh hưởng ở khu vực, bảo đảm cho Trung Quốc có vai trò quyết
định ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, phục vụ cho việc thực hiện “giấc mộng
Trung Hoa”, đưa Trung Quốc trở thành “cường quốc hải dương”, tiến tới trở thành
“cường quốc thế giới” vào giữa thế kỷ XXI. Để thực hiện chủ trương đó, Trung Quốc
đã công khai và ráo riết theo đuổi yêu sách “đường chín khúc” phi pháp, khi đuối
lý và bị thế giới phản đối thì chuyển qua yêu sách “Tứ Sa”; tìm mọi cách né
tránh luật pháp quốc tế để thực hiện các bước đi ngang ngược ở Biển Đông, cự
tuyệt sự trao đổi thẳng thắn, thiện chí của một số nước để giải quyết tranh chấp
bằng biện pháp hòa bình, khiến nhiều bên tranh chấp bất mãn. Việc Trung Quốc áp
dụng chiến thuật “vùng xám” với sự tham gia của các lực lượng cảnh sát biển,
dân quân biển được trang bị tàu cá có vũ trang để hỗ trợ cho các hoạt động xâm
lấn trên các vùng biển thuộc chủ quyền các nước như Việt Nam, Malaysia,
Philippines, Indonesia, cùng với đó là bồi đắp, xây mới các đảo nhân tạo thành
các căn cứ quân sự và đưa các loại vũ khí hiện đại ra bố trí trên đó khiến cho
các nước rất lo ngại và buộc phải cân nhắc các biện pháp bổ sung ngoài biện
pháp ngoại giao, hòa bình để phòng ngừa các tình huống bất ngờ đến từ Trung Quốc.
Chính các biện pháp mang tính chất “răn đe” nói trên của Bắc Kinh đã thúc đẩy
cuộc chạy đua vũ trang mới trong khu vực. Trong hơn 10 năm qua, khu vực châu Á
- Thái Bình Dương nói chung, Đông Á nói riêng, trở thành khu vực có lượng nhập
khẩu vũ khí nhiều nhất thế giới, chiếm 42% tổng kim ngạch nhập khẩu vũ khí toàn
cầu trong năm 2018, vượt xa con số 32% của khu vực Trung Đông, vốn được coi là
điểm “nóng” nhất về an ninh của thế giới những năm gần đây.
Thứ
hai, lòng tin chiến lược giữa các nước bị suy giảm, gia tăng sự chia rẽ giữa
các nước trong khu vực. Có thể thấy, chưa bao giờ từ khóa “lòng tin chiến lược”
trong quan hệ quốc tế lại được đề cập nhiều như hiện nay. Mặc dù tuyên bố “trỗi
dậy hòa bình” và rằng, Trung Quốc sẽ duy trì hòa bình, không quân sự hóa Biển
Đông, thúc đẩy hợp tác với các nước để “cùng thắng”… Nhưng, trái ngược với
tuyên bố đó, Bắc Kinh lại sử dụng mọi biện pháp, thủ đoạn trong hoạt động tuyên
truyền về yêu sách “chủ quyền” Biển Đông theo “đường chín khúc”; đẩy mạnh luật
hóa, dân sự hóa các hoạt động ở Biển Đông; tăng cường hoạt động tuần tra, chấp
pháp nhằm mở rộng quyền kiểm soát thực tế trên Biển Đông; đẩy mạnh thăm dò khai
thác dầu khí, trong khi lại cứng rắn phản đối các nước khai thác, thăm dò trong
phạm vi thuộc chủ quyền các nước, thậm chí hạ đặt và đưa giàn khoan thăm dò dầu
khí vào ngay trong khu vực thuộc Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một số nước;
tăng cường sức mạnh và mở rộng hoạt động của lực lượng hải quân trên các vùng
biển có tranh chấp nhằm “răn đe” đối phương; bồi đắp, mở rộng, xây dựng các
công trình quân, dân sự trái phép trên quần đảo Trường Sa với quy mô và tốc độ
chưa từng có nhằm hỗ trợ cho các đòi hỏi “chủ quyền” và mở rộng khả năng kiểm
soát toàn bộ Biển Đông; bắt giữ, đâm chìm tàu cá các nước; thực hiện chính sách
ngoại giao vừa lôi kéo, vừa gây sức ép, chia rẽ các nước ASEAN, ngăn chặn “quốc
tế hóa” vấn đề Biển Đông… Chính sự trỗi dậy “không bình thường” trên của Trung
Quốc đã khiến cho các nước mất niềm tin với những gì Bắc Kinh tuyên bố. Nhiều
cường quốc đã phải điều chỉnh chính sách, chuyển từ can dự sang cạnh tranh quyết
liệt hơn với Trung Quốc, điển hình trong đó là Mỹ. Sau khi xác định “Trung Quốc
là đối thủ số 1”, Mỹ đã triển khai chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự
do và rộng mở”, từng bước hình thành “Tứ giác kim cương” gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc để
xây dựng đồng minh, đối tác nhằm bao vây, hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc.
Theo báo cáo “Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” do Bộ Quốc phòng Mỹ
công bố ngày 01/6/2019, Mỹ đã triển khai hơn 2.000 máy bay, 200 tàu chiến và
tàu ngầm cùng 370.000 binh sỹ ở khu vực, lên kế hoạch mua 10 tàu khu trục và
triển khai tên lửa đạn đạo trong giai đoạn từ 2020 - 2024 để chuẩn bị cho kịch
bản xung đột tại Biển Đông. Có thể thấy, Mỹ và Trung Quốc đang thiếu sự tin tưởng
lẫn nhau, đỗ lỗi cho nhau về nguyên nhân gây ra sự bất an thường trực ở Biển
Đông, từ đó liên tục triển khai nhiều biện pháp đáp trả lẫn nhau, khiến cho khu
vực này trở thành điểm “nóng” của thế giới.
Cùng
với Mỹ, Nhật Bản và các nước như Nga, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU)… cũng tích
cực can dự vào Biển Đông nhằm phục vụ cho chiến lược riêng của mỗi nước. Động
thái trên cùng với các hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích ở Biển Đông của Trung Quốc
và các nước trong khu vực, đã và đang làm cho tình hình kinh tế - thương mại,
hàng hải tại đây trở nên sôi động hơn, song cũng làm cho vấn đề an ninh ngày
càng “nóng” hơn, đẩy khu vực vào vòng xoáy tập hợp lực lượng mới, tạo sức ép rất
lớn buộc các nước vừa và nhỏ rơi vào thế phải “chọn bên” nếu không xử lý khéo
léo cạnh tranh giữa các nước lớn. Trên thực tế, nội bộ ASEAN đã có sự “rạn nứt”
kể từ khi Trung Quốc thực hiện sách lược “bẻ đũa từng chiếc”, tìm cách lôi kéo,
gây sức ép với một số nước thành viên để ngăn chặn việc hình thành các lập trường
chung gây bất lợi cho nước này.
Ngạn
ngữ có câu “có niềm tin là có tất cả, mất niềm tin là mất tất cả”. Sự gia tăng
căng thẳng trên Biển Đông có khả năng sẽ tạo ra những phản ứng mang tính dây
chuyền, làm chậm hoặc thậm chí chấm dứt các chương trình, hoạt động hợp tác cấp
bách. Thực tiễn gần một thập kỷ qua cho thấy, không có nhiều dự án hợp tác biển
đáng kể được triển khai giữa Trung Quốc với các bên tranh chấp khác bởi giữa
các bên còn tồn tại sự nghi kỵ, lo ngại sâu sắc. Bất chấp việc Trung Quốc và
ASEAN ký kết tuyên bố về “Thế kỷ bảo vệ môi trường biển và ven biển ở Biển
Đông” ngày 13/11/2017, nhưng đến nay vẫn chưa có chương trình hay sáng kiến cụ
thể nào được các bên chấp thuận, chứ chưa nói đến các hoạt động có ý nghĩa thực
chất. Tuyên bố vẫn chỉ là tuyên bố mà thôi.
Thứ
ba, trật tự quốc tế dựa trên luật lệ đang bị xói mòn nghiêm trọng, có nguy cơ tạo
ra những bất ổn cục bộ. Như đã biết, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982 (UNCLOS 1982) là bản hiến pháp về biển và đại dương, là cơ sở pháp lý cao
nhất để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán cũng như các lợi
ích khác của các quốc gia; là căn cứ để giải quyết các tranh chấp, bảo đảm hòa
bình, ổn định cho các khu vực; các nước tham gia ký kết và phê chuẩn phải có
nghĩa vụ tuân thủ đầy đủ Công ước. Nói cách khác, UNCLOS 1982 là nền tảng của
trật tự trên biển toàn cầu trong 25 năm qua và đã thiết lập một hệ thống quy tắc,
luật lệ trong sử dụng biển và đại dương, hài hòa quyền, lợi ích và trách nhiệm
giữa các quốc gia có biển và không có biển, giữa các cường quốc và các nước vừa
và nhỏ. Năm 1996, Trung Quốc phê chuẩn Công ước và sử dụng nó để đòi hỏi quyền
và bảo vệ các lợi ích của mình. Tuy nhiên, vượt qua thời kỳ “giấu mình chờ thời”,
khi mạnh lên, Bắc Kinh đã lộ rõ ý đồ, tìm cách áp đặt một trật tự riêng cho Biển
Đông, từ chối quyền và lợi ích hợp pháp của các nước khác. Cách hành xử “bất nhất”
và thiên về hành động “cơ bắp”, cường quyền của Bắc Kinh khiến cho các nước vừa
và nhỏ trong khu vực cảm thấy lo ngại, không còn tin vào hệ thống luật pháp quốc
tế, cũng như cam kết của các cường quốc.
Thực
tế cho thấy, Bắc Kinh đã bỏ qua UNCLOS 1982 khi bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng
tài thường trực (PCA) năm 2016 liên quan đến vụ Philippines kiện Trung Quốc về
tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông hoặc cố tình giải thích sai UNCLOS 1982 để vẽ
đường cơ sở thẳng ở Hoàng Sa nhằm tạo ra EEZ cho riêng mình và đang có ý đồ áp
dụng đối với Trường Sa. Đây là một thách thức pháp lý trên biển rất nghiêm trọng
và nó chưa dừng lại ở đó. Từ đầu năm 2020 đến nay, ngoài việc xâm phạm EEZ của
Malaysia, Indonesia, Philippines, Việt Nam, tổ chức tập trận quân sự để “răn
đe” các nước, Trung Quốc còn ngang nhiên công bố thành lập hai “quận” Tây Sa và
Nam Sa trực thuộc cái gọi là “thành phố Tam Sa” để quản lý hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa; công bố “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể ở Biển Đông,
trong đó có nhiều thực thể nằm dọc theo “đường chín khúc” mà Bắc Kinh đơn
phương tuyên bố “chủ quyền” và rất gần đất liền Việt Nam; gửi công hàm cho Liên
hợp quốc để trực tiếp hoặc gián tiếp tuyên bố bảo vệ yêu sách “đường chín
khúc”. Rõ ràng, tham vọng xâm chiếm phần lớn diện tích Biển Đông của Trung Quốc
là mối đe dọa thật sự đối với chủ quyền các nước chứ không phải là một sự “thổi
phòng” như Bắc Kinh thường cáo buộc.
Thực
tế trên cũng cho thấy, Trung Quốc đang tỏ ra bất chấp các luật lệ và chuẩn mực
hành xử của quốc tế hiện nay, chứng tỏ pháp luật quốc tế chưa đủ mạnh để kiềm
chế, điều chỉnh hành vi của nước này, thậm chí còn bị “bẻ cong” để phục vụ cho
tham vọng “bành trướng” của họ. Tuy nhiên, việc Trung Quốc coi thường hay lạm dụng
lỗ hổng của luật pháp quốc tế để phục vụ cho lợi ích riêng sớm muộn cũng sẽ vấp
phải hệ lụy bởi đó là điều “lợi bất cập hại”, như cổ nhân đã dạy “gieo nhân nào
sẽ gặp quả nấy”. Chính cách hành xử của Trung Quốc đã buộc các nước phải xem
xét lại hệ thống pháp lý quốc tế hiện hành, đánh giá lại quan hệ của họ với Bắc
Kinh, áp dụng chiến lược cạnh tranh thay vì can dự, hợp tác như trước đây. Các
trung tâm quyền lực như Mỹ, Nhật Bản và EU đang điều chỉnh chính sách, nhìn nhận
Trung Quốc là “thách thức” hơn là “cơ hội”.
Do
Biển Đông có vị trí, vai trò quan trọng, nên ngoài các khó khăn, thách thức như
đã nêu, có hai lĩnh vực thuận cho các nước trong khu vực cùng bắt tay hợp tác để
giải quyết, đó là nghề cá và bảo vệ môi trường biển vì đây là nguồn lợi, là di
sản chung cho tiến trình phát triển của tất cả các nước chứ không riêng của một
nước nào, khác với hợp tác khai thác tài nguyên chung vì còn liên quan đến chủ
quyền của từng quốc gia, vốn đang xảy ra nhiều tranh chấp.
Nhiều
công trình đã đánh giá, Biển Đông là 1 trong 5 khu vực có lượng cá đánh bắt lớn
nhất thế giới, chiếm khoảng 12% sản lượng cá toàn cầu. Tuy nhiên, toàn bộ nghề
cá ở Biển Đông, vốn sử dụng hàng triệu lao động (khoảng 3,7 triệu người) và
giúp nuôi sống hàng trăm triệu người, đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Theo thống
kê chưa đầy đủ, tổng trữ lượng cá ở Biển Đông đã cạn kiệt khoảng 70 - 95% kể từ
những năm 1950 và tỷ lệ khai thác đã giảm 66 - 75% trong vòng 20 năm qua. Sự
suy giảm nguồn cá ở Biển Đông do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Số lượng tàu
đánh cá quá lớn (chiếm hơn 50% tổng số lượng tàu cá thế giới); hoạt động đánh bắt
được ưu tiên hơn là bảo tồn, phát triển; xuất hiện nhiều hình thức đánh bắt
mang tính hủy diệt như thuốc nổ, lưới quét; ô nhiễm môi trường biển… Đặc biệt,
việc phá hoại diện tích lớn hệ thống san hô đã đe dọa nơi cư trú, phát triển của
các giống loài, làm suy giảm nghiêm trọng đến đa dạng sinh học biển. Trước thực
tế đó, các quốc gia ven Biển Đông không có sự lựa chọn nào khác là phải hợp tác
với nhau trên cơ sở hệ thống pháp luật hiện có để duy trì và phát triển nguồn lợi
thủy sản vì lợi ích của các thế hệ tương lai. Tuy nhiên, hợp tác phải dựa trên
cơ sở nghiên cứu kỹ càng, công bằng, phù hợp với thực tiễn quốc tế hiện đại.
Các hành vi đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá trên các vùng biển không phù
hợp với luật pháp quốc tế sẽ càng làm phức tạp thêm tình hình.
Về
bảo vệ môi trường biển, có thể nói, hiện nay ô nhiễm môi trường biển đang trở
thành vấn nạn ở Biển Đông. Đa số các nguồn ô nhiễm, đầu độc biển và đại dương đều
xuất phát từ các hoạt động trên bờ. Tốc độ phát triển kinh tế nhanh, cộng với ý
thức bảo vệ môi trường biển thấp kém dẫn đến ô nhiễm biển ven bờ nghiêm trọng,
rác thải nhựa theo các dòng sông chảy ra biển ngày càng nhiều. Nếu không có sự
hợp tác bảo vệ môi trường biển và phát triển nguồn lợi ngư nghiệp thì Biển Đông
sẽ có “nhiều nhựa hơn là cá”. Bên cạnh đó, biển ngày càng bị ô nhiễm do lượng
chất thải đổ vào nó thông qua nhấn chìm hợp pháp và bất hợp pháp ngày càng nhiều.
Rõ ràng, vấn đề môi trường biển ở Biển Đông liên quan chặt chẽ đến hành vi ứng
xử khác nhau của con người. Đặc biệt, nhằm thực hiện tham vọng chủ quyền biển,
đảo, Trung Quốc đã phá hủy quy mô lớn các thực thể tự nhiên ở các quần đảo
ngoài khơi Biển Đông và xây dựng đảo nhân tạo ở đó. Hậu quả vấn đề sẽ nghiêm trọng
hơn nếu các hành vi hủy hoại môi trường và tài nguyên biển như vậy không được
ngăn chặn.
Thực
tiễn đó cho thấy, các bên cần nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá lại những thách thức
và rủi ro đối với môi trường biển, từ đó tìm kiếm các giải pháp mang tính chia
sẻ và có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia hữu quan. Sự hợp tác này cần được
xác định và thực thi trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, bình đẳng, hướng tới
góp phần giữ gìn di sản chung.
Nhìn
chung, Biển Đông sẽ còn có nhiều diễn biến phức tạp, các tranh chấp khó có thể
giải quyết trong trung hạn. Trong bối cảnh tham vọng chính trị cường quyền gia
tăng, hơn lúc nào hết, các nước trong khu vực cần tận dụng các công cụ pháp luật
và chính trị sẵn có để tập hợp lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc
tế; kiên quyết, kiên trì dựa vào luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982 để đấu
tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình ở Biển Đông, đồng thời triệt để tận
dụng mọi cơ hội để đối thoại, hợp tác hướng đến bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét