Home »
Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017
越南在东海的硬实力与软实力(第一期)
VietTimes --
Theo chuyên gia Alexander Vuving viết trên National Interest, không một chiến
lược đơn lẻ nào có thể miêu tả cách thức Việt Nam xử lý vấn đề Biển Đông. Thay
vào đó, Việt Nam sử dụng rất nhiều cách tiếp cận với rất nhiều công cụ từ sức mạnh
cứng đến sức mạnh mềm, với ít nhất 7 chiến lược riêng biệt.
Tháng 5/2014,
Trung Quốc đã ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép khổng lồ vào vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Động thái này đã gây ra sự đối đầu gay gắt
giữa tàu Trung Quốc và Việt Nam trên Biển Đông, đưa quan hệ hai nước xuống mức
thấp nhất sau nhiều năm.
Chuyên gia
Vuving cho rằng bế tắc này cũng chính là phép thử giới hạn để xác định ai sẽ là
đồng minh của ai nếu như có xung đột xảy ra. Trong khi phần lớn thế giới đều giữ
vị thế trung lập, một số quốc gia đã ủng hộ Việt Nam dưới nhiều hình thức.
Trong số các nước ủng hộ, Mỹ và Nhật là hai nước mạnh nhất và đáng tin cậy nhất.
Theo ông
Vuving, ranh giới mong manh giữa một bên ủng hộ duy trì nguyên trạng còn một
phe là xét lại. Phe ủng hộ nguyên trạng có cùng quan điểm duy trì sự cân bằng
quyền lực giữ hòa bình trong khu vực suốt hai thập kỷ qua. Còn Trung Quốc với tốc
độ tăng trưởng kinh tế chóng mặt trong hơn ba thập kỷ dường như đã quyết tâm sử
dụng sức mạnh mới này để xác quyết các yêu sách chủ quyền lãnh thổ phi lý hòng
đạt được mục đích cuối cùng là thống trị cả khu vực. Triển vọng an ninh khu vực
phụ thuộc rất nhiều vào mức độ các nhân tố liên quan vấn đề Biển Đông.
“Cửa trước”
là Biển Đông
Vấn đề Biển
Đông hiện nay chính là tranh chấp lãnh thổ được thể hiện bằng các cuộc xung đột
về tài nguyên thiên nhiên giữa các quốc gia ven biển. Các cuộc xung đột này
không minh họa rõ ràng bản chất và động cơ của các bên liên quan. Bên cạnh giá
trị kinh tế, Biển Đông còn có giá trị chiến lược khổng lồ với một số nước và
giá trị mang tính biểu tượng ngày càng cao với một số bên tranh chấp.
Trung Quốc
tuyên bố chủ quyền ngang ngược với hầu như toàn bộ Biển Đông nằm trong cái gọi
là “đường lưỡi bò”, trong khi Việt Nam có chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa dọc bờ biển đất nước. Biển Đông được
cho là rất giàu nguồn hải sản, khoáng sản và có trữ lượng năng lượng lớn. Một số
nước ước tính rằng trữ lượng dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông bằng 80% của Ả Rập
Saudi. Với gần 10% sản lượng đánh bắt trên toàn thế giới, khu vực này cũng là một
trong những ngư trường đánh bắt cá lớn nhất thế giới.
Biển Đông là
một trong những vùng biển nằm trong khu vực mà các nhà hoạch định chiến lược và
các nhà phân tích Trung Quốc gọi là “chuỗi đảo thứ nhất”. Vùng biển này cung cấp
lối tiếp cận dễ dàng với các trung tâm công nghiệp của Trung Quốc, hết sức quan
trọng theo quan điểm của Bắc Kinh đối với việc bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc trước
những kẻ xâm lược từ hướng biển. Nhưng theo ông Vuving, Biển Đông thậm chí còn
quan trọng hơn với Việt Nam. Nếu Biển Đông bị Trung Quốc coi là "sân
sau" của nước này thì nó lại là "cửa trước" của Việt Nam.
Biển Đông có
giá trị chiến lược không chỉ với các quốc gia ven biển mà với cả các nước trong
khu vực và các cường quốc bên ngoài . Gần 1/3 thương mại quốc tế và một nửa tổng
lượng vận chuyển dầu mỏ và khí đốt toàn cầu được vận chuyển qua các tuyến đường
trên Biển Đông – tuyến đường ngắn nhất nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Không chỉ các nền kinh tế ở Đông Nam Á mà cả các nước ở Đông Bắc Á cũng phụ thuộc
rất nhiều vào các tuyến đường giao thương này. Khoảng 80% lượng nhập khẩu dầu mỏ
và khí đốt Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan được vận chuyển qua Biển
Đông.
Trong khi
các nước có liên quan trong vấn đề Biển Đông đều có lợi ích ở các tuyến đường
biển này, các nước lớn với tham vọng bá chủ như Mỹ và Trung Quốc lại có lợi ích
khác, dựa trên giá trị chiến lược của các tuyến đường này. Với vị trí trọng yếu
chốt chặn tuyến đường huyết mạch châu Á và là một trong những tuyến đường huyết
mạch toàn cầu, việc kiểm soát việc ra vào Biển Đông là điều kiện tiên quyết để
đạt được quyền lực tối cao của hải quân ở Tây Thái Bình Dương, một trụ cột tối
quan trọng để đạt được vị thế bá chủ trong khu vực Đông Á.
Chuyên gia
Vuving nhận xét, bên cạnh giá trị kinh tế và chiến lược, Biển Đông cũng có giá
trị biểu tượng rất lớn. Các cuộc xung đột và các mối nguy hiểm trong khu vực đã
biến nó thành biểu tượng tính cách dân tộc mạnh mẽ. Việt Nam đã xác lập và củng
cố chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Hiến pháp sửa đổi năm
2013.

- Không có bài viết liên quan
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét