Home » Hồ Chí Minh
胡志明主席的遗产具有普遍性、时事性和超越时代价值
03:17 |1987年10月20日至11月20日在巴黎举行的联合国教育、科学及文化组织(UNESCO)第24届大会通过了有关向胡志明主席授予“越南民族解放英雄和杰出文化家”称号的C24/18.65号决议。
决议呼吁会员国积极参与纪念胡志明主席诞辰100周年的活动并建议教科文组织总干事采取适当措施,如举办活动,让人们更加了解胡志明主席的伟大思想和对越南民族解放事业的贡献。
值此该决议发布35周年,越南外交部副部长何金玉就胡志明思想遗产的价值接受了媒体记者的采访。
何金玉表示,胡志明主席在寻找救国之道过程中接触过不同民族和不同文明。民族文化与人文精华的结晶给他老人家带来了全面而独特的世界观。在胡志明主席走过的地方,甚至从未走过的地方,他的思想、人文价值观、道德品质和人格总是给人带来强大的吸引力和传播力,影响世界多地为独立、自由、和平、正义、民主和社会进步而斗争的事业。
凭借“在文化、教育和艺术等方面的重大贡献”,1987年联合国教科文组织(UNESCO)颁布了有关越南民族解放英雄和杰出文化家胡志明主席的决议。该决议证明越南民族解放事业的正确性和正义性,以及国际社会对胡志明主席为国为民反对压迫势力、争取民族独立和社会进步等作出的巨大贡献的认可。决议也体现出国际友人对越南革新事业和国家建设与发展事业的大力支持,使越南能够取得今天的成就。
何金玉表示,胡志明的遗产是实践与理论结合的整体,包括他老人家的生平事迹、伟大事业、进步的思想、闪亮的道德和简朴而高贵的工作作风。他留下的遗产具有普遍性、时事性和超越时代价值。那就是独立自主、人类解放、国际团结和对文化多样性的重视以及消除文盲、终身学习、植树环保等方面的崇高价值。
联合国教科文组织授予越南敬爱的胡志明主席的荣誉,证明了他老人家的理想和所选择的革命道路的正确性,越南全党、全军和全民都在坚持他选择的道路,实现他的愿望,即民族独立、为所有人带来自由、温饱和幸福的生活。这一荣誉是对越南每一位党员继续学习胡志明思想道德和工作作风的极大鼓舞,也是反对歪曲越南党和国家正确政策和路线的有力证据。
何金玉强调,胡志明主席的遗产将继续得到继承与弘扬,有助于提升越南的文化价值,同时证明党在建国卫国、发展和融入国际社会事业的正确路线方针。(来源:越通社)
Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại mang tính phổ quát, vượt thời đại và vẹn nguyên tính thời sự
01:13 |Khoá
họp lần thứ 24 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên
hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại Paris (từ ngày 20-10 đến 20-11-1987) đã thông qua
Nghị quyết 24C/18.65 ghi nhận "năm 1990 sẽ đánh dấu 100 năm kỷ niệm Ngày
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hoá kiệt
xuất của Việt Nam”. Nghị quyết khuyến nghị các quốc gia thành viên cùng tham
gia kỷ niệm và đề nghị Tổng giám đốc UNESCO triển khai các biện pháp thích hợp
"bằng việc tổ chức các hoạt động cụ thể để tưởng niệm Người, qua đó làm
cho mọi người hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của những tư tưởng và những cống hiến cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người".
Trên
hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với các dân tộc,
các nền văn minh khác nhau. Sự kết tinh giữa văn hóa dân tộc và tinh hoa nhân
loại đã mang đến cho Người một thế giới quan toàn diện, độc đáo. Những nơi Người
đã đi qua, thậm chí những nơi Người chưa từng tới nhưng tư tưởng, giá trị nhân
văn, đạo đức và nhân cách của Hồ Chí Minh luôn mang sức lôi cuốn, lan tỏa mãnh
liệt, tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đến các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình,
công lý, dân chủ và tiến bộ xã hội ở nhiều nơi trên thế giới. Với những
"đóng góp quan trọng về nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục,
nghệ thuật", năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO) đã ra Nghị quyết vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải
phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất”.
Nghị
quyết là minh chứng hùng hồn khẳng định sự đúng đắn, chính nghĩa của sự nghiệp
giải phóng dân tộc của Việt Nam, là sự công nhận của cộng đồng quốc tế đối với
những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh của
nhân loại trước áp bức, bất công, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Nghị
quyết cũng là sự cổ vũ, ủng hộ mạnh mẽ của bạn bè quốc tế đối với công cuộc Đổi
mới, phát triển đất nước của Việt Nam, để từ đó đất nước ta có được thành quả
như ngày nay.
Di
sản Hồ Chí Minh là một tổng thể thực tiễn và lý luận, bao gồm toàn bộ cuộc đời
sinh động, sự nghiệp vĩ đại, tư tưởng tiến bộ, đạo đức sáng ngời, phong cách giản
dị, cao quý của Người. Di sản Người để lại mang tính phổ quát, vượt thời đại và
vẹn nguyên tính thời sự. Đó là độc lập tự chủ, giải phóng con người, đoàn kết
quốc tế, coi trọng đa dạng văn hóa; diệt giặc dốt gắn với xóa nạn mù chữ; học tập
suốt đời gắn với giáo dục toàn cầu; tết trồng cây gắn với bảo vệ môi trường…
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhân dân ta
giành Chính quyền, giành độc lập dân tộc, đấu tranh thống nhất đất nước và tiến
hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Đảng ta khẳng định kiên trì lấy Chủ
nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động cách mạng. Do vậy, sự vinh danh của UNESCO đối với chủ tịch Hồ
Chí Minh kính yêu của chúng ta khẳng định tính đúng đắn của lý tưởng và con đường
cách mạng mà Người đã lựa chọn và toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang kiên
định đi theo nhằm hiện thực hoá mong ước của Người, đó là “đem lại độc lập cho
dân tộc” “đem lại cuộc sống tự do, ấm no và thực sự hạnh phúc cho tất cả mọi
người”.
Sự
vinh danh này là nguồn động viên cổ vũ to lớn để mỗi Đảng viên chúng ta tiếp tục
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây
cũng là minh chứng mạnh mẽ phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ
trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
将胡志明思想运用于法治国家建设中
07:11 | (VOV) -1945年8月19日八月革命取得胜利,东南亚第一个工农国家建设之时,胡志明关于民有、民治、民享法治国家的思想对组织和运行创新型国家、服务人民和社会,以及建设与健全今天的社会主义法治国家起着极为重要的作用。
胡志明关于民有、民治、民享法治国家的思想体现了马列主义观点与有选择性地继承、吸收人类知识、经验并将其灵活运用于越南具体历史条件的有机结合。这是真正民有、民治、民享的国家,正如胡志明主席1945年9月3日在政府委员会会议上所强调的:“全民通过大选选举国会。国会选举政府。这个政府是真正的人民的政府”。国家的权力是人民的权力、是人民委托国家机关行使的权力。
胡志明法治国家思想的亮点是国家与社会管治中法律和道德的有机结合,正如他老人家所说的:道德是法律之根,而法律是社会的准则。
胡志明思想中的法治国家是尊重并保护人权和公民权的国家。胡志明主席1945年9月2日在宣告越南民主共和国诞生的《独立宣言》中强调:“人人生而自由, 在权利上一律平等,必须永远享有自由和权利平等”。这是具有革命性、科学性和人文性的“人权宣言”之一,体现胡主席的时代眼光和有关人权的敏锐思维。胡志明有关人权的思想不停留在平等权、生活权、自由权、追求幸福权上,还扩大到当家作主权、受法律保护权、出行权、居留权、财产所有权、信仰自由权等。可以说,胡志明思想中的人权概念涵盖民事、经济、文化、社会等领域。
胡志明思想中的法治国家拥有民主法律体系,代表人民的意志和权益。法律的民主性不仅体现在法律对人民的利益有详实规定,还体现在人民直接参与到法律建设工作中。法律建设必须植根于人民的意志,各团体、机关和各阶层人民集思广益。实际上,越南的法律建设尤其是宪法制定过程一向确保广大民众的参与。
胡志明主席也强调党组织、国家和党员的法理责任与权限。胡主席还要求管控国家权力,与国家机关中的官僚主义、贪污腐败和浪费现象作斗争,打造敬业、廉正且真正为人民服务的国家公务员队伍。可以肯定地说,胡志明关于民有、民治、民享法治国家的思想已经发展到一个高峰,反映科学、进步且崇高思维的完善。一切都是为了建设充分包含世界文明和民主制度价值的法治国家。
1945年8月19日八月革命取得胜利, 9月2日越南民主共和国诞生的77年后,越南通过继续革新立法工作、提高法律建设能力、确保法律的全面性、配套性、统一性、透明可行性、符合国家经济社会条件且充分反映人民的意志和愿望等,加强将胡志明思想运用于社会主义法治国家建设中。推动法律建设、健全及执法工作是出于法律至上需要,旨在保障人民当家作主权、建设和发展社会主义定向市场经济,同时克服现行法律体系的不足。
越南也正加快将人权规定及宪法赐予人民的自由和权力等体制化,确保国家和公民在实施人权中的双向责任。越南也致力于健全国家权力管控机制,打击官僚主义和腐败浪费现象,建设具备良好品德、能力,能满足法治国家建设要求的干部队伍。这是具有切实意义的工作,以继承和真正践行胡志明主席关于法治国家的思想。(完)
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước pháp quyền
06:09 |(VOV) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân, khi xây dựng nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á sau Cách mạng
tháng Tám 19/8/1945, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tổ chức và vận hành nhà
nước kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội, góp phần xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân thể hiện trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân
loại, vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Đó
là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, khẳng định: “Do Tổng tuyển cử mà
toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là
Chính phủ của toàn dân”. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân
dân ủy thác cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước”.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là
nhà nước pháp quyền có sự kết hợp nhuần nhuyễn pháp luật và đạo đức trong quản
lý nhà nước và xã hội. Theo Người, đạo đức là gốc của pháp luật, còn pháp luật
chính là đạo đức chuẩn mực trong xã hội.
Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhà nước tôn trọng,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”. Đây là một trong những bản tuyên ngôn nhân quyền có
tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả; phản ánh một tầm nhìn thời đại,
một tư duy sắc sảo về quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền con người không chỉ dừng lại ở quyền bình đẳng, quyền sống, quyền
tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc mà Người còn bàn tới quyền làm chủ, quyền được
pháp luật bảo vệ, quyền đi lại, cư trú, quyền làm công dân, quyền hôn nhân và
xây dựng gia đình, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và
tôn giáo… Có thể nói, quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm
phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu trên các phương diện quyền dân sự, chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội...
Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhà nước có hệ thống pháp luật dân chủ, thể
hiện ý chí, lợi ích của nhân dân. Tính dân chủ của pháp luật không chỉ thể hiện
ở chỗ nội dung các đạo luật ghi nhận quyền và lợi ích của nhân dân mà còn thể
hiện ở chỗ nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng các đạo luật. Việc xây dựng
pháp luật phải xuất phát từ sáng kiến của nhân dân, có sự tham gia đóng góp ý
kiến của các cơ quan đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân. Trên thực tế, trong quá
trình xây dựng các bản hệ thống pháp luật, đặc biệt là các bản Hiến pháp, Việt
Nam luôn bảo đảm sự tham gia đóng góp ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân
dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của Đảng,
Nhà nước và cán bộ đảng viên nếu không làm tốt chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của
mình trong nhà nước pháp quyền. Người cũng yêu cầu có biện pháp kiểm soát quyền
lực nhà nước, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà
nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, trong sạch, thực sự là
công bộc của nhân dân. Như vậy, có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã phát triển tới một đỉnh cao, phản
ánh sự hoàn thiện của tư duy vừa khoa học, tiến bộ vừa nhân văn cao cả, hướng tới
xây dựng một nhà nước chứa đựng đầy đủ những giá trị cao quý nhất của nền văn
minh thế giới, của thời hiện đại, đó là những chân giá trị của chế độ nhà nước
dân chủ và pháp quyền.
Tại thời điểm 77 năm sau Cách mạng tháng Tám 19/8/1945 và thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 2/9/1945, Việt Nam tăng cường vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng việc tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, nâng cao năng lực xây dựng pháp luật, bảo đảm có hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, khả thi, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật xuất phát từ yêu cầu thượng tôn Hiến pháp, pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và khắc phục những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành. Việt Nam cũngkhẩn trương thể chế hóa các quy định về quyền con người, quyền và tự do hiến định của công dân, bảo đảm trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước và công dân trong việc thúc đẩy và thực thi quyền con người, quyền và tự do của công dân. Việt Nam cũng tăng cường hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước, tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là những việc làm ý nghĩa, thiết thực, nhằm tiếp nối và triển khai đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền.
《胡志明主席与体育运动》一书问世
09:30 |(人民报)面向纪念越南国庆节77周年(1945.09.02),位于主席府的胡志明主席遗迹区、体育与旅游出版社、教育科学与环境院、国家数字化转型与贸易投资促进中心、全球投资对接与发展技术责任有限公司配合出版《胡志明主席与体育运动》特别书。
出版单位透露,这本书介绍首次公布的内容、资料和图像。这是关于胡志明主席的宝贵资料,有助于宣传、普及、教育和了解胡志明主席在体育锻炼、发展民族、建设富足生活,致力于人民幸福和建国护国事业方面的思想、榜样和道德。
这本书是充满意义和历史价值的锦囊,与“全民以伟大的胡伯伯为榜样锻炼身体”运动和政治局关于“加强学习和实践胡志明思想、道德、作风”的第五号指示(05-CT/TW)同行。
这本书是在我国刚刚经历了Covid-19大流行,疾病仍然复杂演变的背景下出版的。 这不仅是参考、研究、学习胡志明主席的有意资料文件,而且有助于以他的光辉榜样提高学习和培训的精神,以抗击疫情。
这本书将于国庆节在胡志明主席遗迹区正式出版发行。(完)
Ra mắt bộ sách đặc biệt "Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thể dục Thể thao"
08:58 |Hướng tới kỷ niệm 77 năm Quốc khánh (2/9/1945), Khu di tích Chủ tịch
Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Nhà xuất bản Thể thao và Du lịch, Viện Khoa học
Giáo dục và Môi trường, Trung tâm Xúc tiến thương mại Đầu tư và Hỗ trợ Chuyển đổi
số Quốc gia cùng Công ty TNHH Tập đoàn Đầu tư Kết nối và Phát triển Công nghệ Toàn
cầu phối hợp xuất bản và phát hành cuốn sách đặc biệt: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với
Thể dục Thể thao”.
Thông tin từ đơn vị xuất bản cho biết, cuốn sách gồm những nội
dung, tư liệu và hình ảnh lần đầu được công bố. Cuốn sách là tư liệu giá trị về
Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và học
tập về tư tưởng, tấm gương, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc luyện tập
thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe, phát triển giống nòi, xây dựng đời sống ấm
no, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cuốn
sách là “cẩm nang” hết sức có ý nghĩa và giá trị lịch sử đồng hành với Cuộc vận
động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” và Chỉ thị số
05-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Cuốn sách được phát hành trong bối cảnh nước ta vừa trải qua đại dịch
Covid-19 và diễn biến dịch bệnh vẫn còn phức tạp. Đây không chỉ là tài liệu hữu
ích cho việc tham khảo, nghiên cứu, học tập noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh mà
còn giúp nâng cao tinh thần học tập và rèn luyện từ tấm gương sáng của Người để
đẩy lùi dịch bệnh.
Sách được phát hành và chính thức ra mắt vào dịp Quốc khánh 2/9 tới
trong Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
Kế hoạch xuất bản cuốn sách đặc biệt “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thể dục Thể thao” cũng là hoạt động cụ thể thực hiện yêu cầu của Bộ Chính trị trong Mục 4 “Khuyến khích sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” tại Kết luận số 01-KL/TW Hà Nội, ngày 18/5/2021của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".
胡志明思想中的科学性、革命性、人文性(第三期)
06:37 |第三期:胡志明思想的革命性—视野、本领和行动
尽忠于国、尽孝于民,战略与策略和方法协调相结合,渗透革命乐观主义,掌握和正确预报历史趋势等科学智慧与革命道德是造成胡志明思想革命性的品质和因素。
革命思想表达已达到真理的核心点
胡志明21岁那年已远渡重洋寻找救国救民道路。1911年6月5日,阮必成离开龙屋港,奔波30多个国家和地区,在整整30年在国外劳动、学习和斗争,旨在寻找救国道路,是改变我国民族命运的历史事件。
从救国救民的崇高目的和动机,以非凡的毅力,科学的智慧与独立、创新精神,阮爱国已选择道路,认清道路,最后成为我党和民族的引路者。阮爱国—胡志明是具有远见卓识,具有坚定不移的本领,特别是冷静清醒地克服形势的一切危险挑战,创造性地、勇敢地行动,对人民的无敌力量与革命力量的胜利拥有强烈的信心的革命领袖的杰出象征。尽忠于国、尽孝于民,战略与策略和方法协调相结合,渗透革命乐观主义,掌握和正确预报历史趋势等科学智慧与革命道德是造成胡志明思想革命性的品质和因素。
胡志明主席提出革命和彻底革命的观念非常科学、简单,但已达到真理的核心点。他老人家用平易近人的语言表达革命思想。胡志明主席写道:“革命是什么?革命就是破旧换新,破坏改好。”搞革命就要革命到底。革命成功了,权力交给多数民众,不可放在少数人手中。这样才避免多次牺牲,人民才获得幸福。这是胡志明主席的英明预感。自从我党仍未成立,革命还在萌芽之中,胡志明主席已提前预料革命衰退危机,若没有人民的管控,权力会被腐化。
《革命之路》是传播马列主义的作品,但他老人家又把革命者的资格放在首位。胡志明主席强调要“维稳主义”,“少于物质欲望。”这都是非常重要的要求,体现一位天才领袖的敏感。历史变迁,尤其是30年前苏东社会主义制度瓦解,世界社会主义系统,革命运动陷入退潮,至今仍对我党拥有警报性价值。这个惨痛的教训凸显了胡志明思想的价值、意义和革命性,尤其是对政治、对执政共产党的先锋理论和道德的保障。
革命性深刻体现于自我批评和批评的勇气
胡志明思想的革命性还充分体现在道德方面。革命者,革命政党要经常培育勤俭廉正,大公无私,一辈子反对个人主义。想要建成社会主义,必须打败个人主义。社会主义思想对立于个人主义思想。真正革命党必须是道德和文化的象征。在关于执政党的理论中,胡志明强调要建设党的道德和文化。这一指引已照耀我党和人民当前党和政治系统建设和整顿工作。
胡志明思想的革命性还深刻体现于革命者和革命党的自我批评和批评勇气。胡志明多次强调,自我批评和批评是党不断进步,让党健康发展,让每个干部、党员维护和发挥革命性、先锋性,得到群众相信和支持,维护对党的信心,深化党和群众的骨肉相连关系的最好办法。
胡志明思想在自我批评和批评勇气上的革命性是党性,让革命具备自我保卫力量的重要因素和条件。胡志明还强调,革命的力量来自民心。党和每个干部、党员要让民信、民服、民爱,得到人民的帮助、支持和保卫,这样任何工作都会成功。
坚定立场,维护革命观点
胡志明思想的革命性就是对共产主义理想和目标的无限忠诚之心,直接体现于坚定不移革命立场和观点,坚定走上“民族独立与社会主义相结合道路”。为了走上这一道路,给祖国、民族和人民带来独立、自由和幸福,首先要维护和保卫马列主义,党的思想基础,要创造性地忠诚、运用和发展马列主义,确保符合越南的历史条件和环境。
胡志明指引我们使用马列主义的科学、革命观点、立场和方法来分析我国情况和特点,独立、创新找出解决革命提出的问题的方法,旨在实现越南民族独立和社会主义,不要生搬硬套外边的经验,尽管学习和运用这些经验是必要和宝贵的。 胡志明独立、自主、创新精神是对主义的忠诚之心,其体现于我党在胡志明指引下正在实现的政治路线。
这一忠诚之心表现为思想、方法和坚定意志和坚强、勇敢行动。一切为了人民的幸福。在每个革命历史时期,胡志明都提高全民族的意志和力量。在历史转折点,胡志明都提出与民族命运、党的重责息息相关的神圣通牒,并对每个人传授强烈的信念。诸如:“尽管要烧掉长山一带也要夺取独立”(1945年八月革命前夕);“尽管牺牲一切,绝不当奴隶”(1946年12月19日全国抗战号召书);“没有什么比独立、自由更可贵”(7月17日全国同胞、战士抗美救国的号召书);“打滚美军,打倒伪军”(1969年己酉庆春诗歌);“我国人民抗美救国斗争尽管要经过更多的艰苦和牺牲,但一定取得完全胜利。那是肯定的”(胡志明遗嘱)。
作为政府主席、国家主席,早在共和政体建设初期,胡志明已颁发国令,奖励有功者,惩治有罪者。法律必须严明以保卫人民。法治与德治并行。要精心为所有人培育良心、责任、重名誉、重廉耻,以维护纯洁之心。这是胡志明思想在建党整党与民主和法权国家建设中的彻底革命性。(未完待续)
Kiên quyết bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh (phần 3)
06:23 |Phần 3: Tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tầm nhìn, bản
lĩnh và hành động
Trí tuệ khoa học, đạo đức cách mạng tận trung với nước, tận hiếu với
dân, kết hợp nhuần nhuyễn chiến lược với sách lược và phương pháp, thấm nhuần chủ
nghĩa lạc quan cách mạng, nắm bắt và dự báo sáng suốt xu thế của lịch sử... là
những phẩm chất và nhân tố làm nên đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Biểu đạt tư tưởng cách
mạng đã chạm đến điểm cốt lõi của chân lý
Hồ Chí Minh khi còn là một thanh niên 21 tuổi với nhiệt huyết của
tuổi trẻ nặng lòng yêu nước, thương dân đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Sự kiện Nguyễn Tất Thành rời Bến cảng Nhà Rồng ngày 5-6-1911 làm phụ bếp và thủy
thủ trên con tàu Latouche Tréville, bắt đầu cuộc đời lao động “vô sản hóa”, đi
khắp các châu lục, đại dương, qua hơn 30 nước và các vùng lãnh thổ khác nhau,
lao động, học tập và tranh đấu trong 30 năm để tìm ra con đường cứu nước là con
đường cách mạng đã mở đầu cho sự thay đổi số phận của dân tộc ta.
Từ mục đích và động cơ cao thượng tìm đường cứu nước, cứu dân,
Nguyễn Ái Quốc với ý chí, nghị lực phi thường, với trí tuệ khoa học và tinh thần
độc lập, sáng tạo, Người đã chọn đường, nhận đường và cuối cùng trở thành người
dẫn đường cho Đảng ta và dân tộc ta trên “Đường Kách mệnh”. Nguyễn Ái Quốc-Hồ
Chí Minh là biểu tượng kiệt xuất của một lãnh tụ cách mạng có tầm nhìn xa trông
rộng, có bản lĩnh kiên định, vững vàng, nhất là bình tĩnh, sáng suốt vượt qua mọi
thử thách hiểm nghèo của hoàn cảnh, hành động sáng tạo, dũng cảm với niềm tin
mãnh liệt vào sức mạnh vô địch của nhân dân, vào chiến thắng của lực lượng cách
mạng. Trí tuệ khoa học, đạo đức cách mạng tận trung với nước, tận hiếu với dân,
kết hợp nhuần nhuyễn chiến lược với sách lược và phương pháp, thấm nhuần chủ
nghĩa lạc quan cách mạng, nắm bắt và dự báo sáng suốt xu thế của lịch sử... là
những phẩm chất và nhân tố góp phần làm nên đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về cách mạng và cách mạng triệt để
như những định nghĩa khoa học, hết sức giản dị mà “chạm” đến điểm cốt lõi của
chân lý. Người biểu đạt tư tưởng cách mạng bằng ngôn ngữ dễ hiểu của đời sống,
không hàn lâm, bác học mà vẫn mang tầm kinh điển, đủ sức vượt qua mọi thử thách
của thời gian, trở thành giá trị bền vững. Hồ Chí Minh viết: “Cách mệnh là gì?
Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Đã làm
cách mệnh thì phải cách mệnh đến nơi (tức là triệt để), theo tấm gương của cách
mạng Nga do Lênin và Đảng kiểu mới của Người lãnh đạo. "... Cách mệnh rồi
thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”(1). Đó là dự cảm sáng
suốt của Người. Từ khi Đảng còn chưa ra đời, cách mạng còn đang trong mầm mống
phôi thai, Người đã tiên liệu trước nguy cơ cách mạng bị suy thoái, quyền lực
có thể bị tha hóa nếu không có sự kiểm soát quyền lực từ nhân dân.
“Đường Kách mệnh” là tác phẩm lý luận, truyền bá Chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam nhưng Người lại đặt lên hàng đầu vấn đề tư cách của một
người cách mệnh, với 23 tiêu chí, chuẩn mực, thấm vào các mối quan hệ cơ bản: Với
tự mình, với người khác, với công việc và đoàn thể... Người đặc biệt nhấn mạnh
yêu cầu “giữ chủ nghĩa cho vững”, “ít lòng tham muốn về vật chất”(2). Đó là những
đòi hỏi hết sức hệ trọng, tỏ rõ sự nhạy cảm của một bậc thiên tài. Lịch sử của
những biến cố, thăng trầm, nhất là sự biến chính trị xảy ra ở Liên Xô và Đông
Âu làm đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản mất vai trò cầm quyền, hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, cách mạng thoái trào (cho dù là tạm thời)
cách đây đã 3 thập kỷ vẫn còn nguyên tính thời sự cảnh báo đối với mỗi chúng
ta, với Đảng ta. Bài học phải trả giá đau đớn đó càng làm nổi bật giá trị, ý
nghĩa và tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là những bảo đảm về lý
luận tiên phong và đạo đức đối với chính trị, đối với Đảng Cộng sản cầm quyền.
Tính cách mạng thể hiện
sâu sắc ở dũng khí tự phê phán và phê phán
Đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn nổi bật trên
bình diện đạo đức. Người cách mạng, Đảng cách mạng phải suốt đời trau dồi cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân. Muốn xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân. Tư tưởng xã hội
chủ nghĩa là đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa. Đảng chân chính cách mạng
phải tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức, văn hóa “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.
Trong lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền, Người trù tính sâu xa phải đặc biệt
coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa. Chỉ dẫn ấy của Hồ Chí Minh đang
soi sáng cho Đảng và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện hiện nay.
Tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn biểu hiện đậm nét
qua dũng khí tự phê phán và phê phán của người cách mạng và Đảng cách mạng về
những khuyết điểm, sai lầm đã mắc phải, có thái độ khách quan khoa học trong
phân tích, đánh giá thực trạng, xem xét kỹ lưỡng những nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn
đến những khuyết điểm, sai lầm đó để kiên quyết sửa chữa, thúc đẩy phong trào
cách mạng tiến lên. Đó là phẩm chất cao quý, can đảm của những người cách mạng
và Đảng cách mạng chân chính. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh rằng, tự phê bình
và phê bình là cách tốt nhất làm cho Đảng tiến bộ không ngừng, thành một Đảng
chắc chắn, mạnh khỏe như người không có bệnh, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên giữ
gìn và phát huy được tính cách mạng, tính tiền phong gương mẫu, được quần chúng
tin tưởng và ủng hộ, giữ vững niềm tin với Đảng và thắt chặt mối liên hệ máu thịt
giữa Đảng với quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ yêu cầu, phương châm, phương pháp tự
phê bình và phê bình và mấu chốt là phải có động cơ, mục đích đúng, phương pháp
khéo léo, thận trọng, kiên quyết mà mềm mỏng, có lý có tình, thấu lý đạt tình.
Mở đầu tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), Người đặt vấn đề phê bình và
sửa chữa, chỉ ra 3 căn bệnh nguy hiểm: Bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, thói ba hoa
mà không ít cán bộ, đảng viên mắc phải, nhất là bệnh hẹp hòi trong dùng người,
trong công tác cán bộ, gây nên lãng phí nhân tài, nhất là không chú trọng sử dụng
nhân tài ngoài Đảng, cản trở đoàn kết trong Đảng, trong dân(3). Người tỏ thái độ
kiên quyết phải tẩy sạch những chứng bệnh ấy, tẩy sạch quan liêu, tẩy sạch chủ
nghĩa cá nhân, đó là bệnh gốc, “bệnh mẹ”, đẻ ra trăm ngàn bệnh khác, những thói
hư tật xấu khác, làm hư hỏng cán bộ, suy yếu tổ chức, dân tình chán nản, hoài
nghi. Người cũng từng chỉ trích, phê phán những cán bộ, đảng viên mắc thói coi
khinh lý luận, khinh dân vận(4). Không chấn chỉnh kịp thời và nghiêm khắc những
lỗi lầm đó thì phong trào cách mạng sẽ không thể tiến triển. Trong bản Di chúc,
Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, phải giữ gìn đoàn kết,
nhất trí, thống nhất tư tưởng và hành động như giữ gìn con ngươi của mắt
mình(5).
Tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua dũng khí tự phê phán
và phê phán mà Người chỉ dẫn là tính Đảng, là nhân tố và điều kiện quan trọng
làm cho cách mạng có sức mạnh tự bảo vệ như Lênin nói. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh,
cách mạng lấy sức mạnh trong lòng dân. Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải làm
cho dân tin, dân phục, dân yêu, dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ thì muôn việc
sẽ thành công.
Kiên định lập trường và
giữ vững quan điểm cách mạng
Tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta phải thấm
nhuần và kiên quyết bảo vệ còn chính là lòng trung thành vô hạn với lý tưởng, mục
tiêu cộng sản chủ nghĩa, biểu hiện trực tiếp ở sự kiên định lập trường, quan điểm
cách mạng, kiên định con đường đi tới “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội” của Việt Nam. Để đi đến cùng con đường đó, đem lại độc lập, tự do, hạnh
phúc cho Tổ quốc, dân tộc và nhân dân, trước hết phải giữ vững và bảo vệ sự
trong sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng, phải trung
thành một cách sáng tạo, khắc phục những giáo điều xơ cứng, phải vận dụng và
phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
của Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ dẫn cho chúng ta dùng quan điểm, lập trường,
phương pháp khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin để phân tích chính
xác tình hình, đặc điểm của nước ta, độc lập, sáng tạo tìm ra cách giải quyết
những vấn đề mà cách mạng đặt ra, bằng con đường nào, điều kiện nào, biện pháp
nào để thực hiện mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, không máy móc sao chép, bắt chước, rập khuôn những kinh nghiệm từ bên
ngoài, dù học tập, vận dụng những kinh nghiệm đó là cần thiết và quý giá. Tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo giàu bản lĩnh của Hồ Chí Minh là thể hiện lòng
trung thành với chủ nghĩa bằng sức mạnh của trí tuệ khoa học, của đạo đức cách
mạng, của đường lối chính trị sáng suốt mà Đảng ta đang ra sức thực hiện theo
chỉ dẫn của Người.
Lòng trung thành đó biểu hiện thành sự nhất quán trong tư tưởng,
phương pháp, ý chí quyết tâm không gì lay chuyển và hành động kiên cường, dũng
cảm, hy sinh để giành thắng lợi. Tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Qua những thời
kỳ lịch sử của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu cao ý chí, sức mạnh của toàn
dân tộc. Vào những thời điểm bước ngoặt, Người đưa ra những thông điệp thiêng
liêng, liên quan đến vận mệnh dân tộc, trọng trách của Đảng, đồng thời truyền đến
mỗi người dân niềm tin mãnh liệt.
Điển hình là: “Dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành
cho được độc lập” (bên thềm Cách mạng Tháng Tám năm 1945); “Thà hy sinh tất cả,
nhất định không chịu làm nô lệ” (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày
19-12-1946); “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (Lời kêu gọi đồng bào, chiến
sĩ cả nước chống Mỹ, ngày 17-7-1966); “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”
(Thơ mừng Xuân Kỷ Dậu năm 1969); “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi
hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn” (Di chúc)...
Tính cách mạng kiên quyết, triệt để trong cuộc đấu tranh giành lấy
chính quyền về tay nhân dân còn phải được tiếp nối trong xây dựng chính thể, bảo
vệ chế độ và mọi thành quả cách mạng, vì hạnh phúc và quyền làm chủ của nhân
dân. Sáng suốt và kiên quyết trong nhận biết và xử lý những tình huống suy
thoái khi quyền lực có nguy cơ bị biến dạng, không vì dân chủ của dân, lại biến
thành “quan chủ”, không làm tròn bổn phận đầy tớ, công bộc của dân, lại lên mặt
“quan cách mạng” ở một số cán bộ, công chức trong bộ máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh
quyết định thành lập Thanh tra Chính phủ, chọn người đủ đức, đủ tài, giao cho họ
quyền hành và ràng buộc bằng chế tài trách nhiệm để xử nghiêm các trường hợp
quan liêu, hống hách, trù dập dân chúng và nhận hối lộ, mắc tội tham ô, tham
nhũng. Người lên án và yêu cầu phải trừng trị nghiêm khắc theo luật pháp tội
tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu như trừng trị một tội ác.
Trên cương vị Chủ tịch Chính phủ, Chủ tịch nước, nguyên thủ quốc
gia, từ những ngày đầu gây dựng chính thể cộng hòa, Người đã ban hành quốc lệnh,
khen thưởng trọng đãi người có công và trừng phạt những kẻ có tội. Trong 12 điều
trừng phạt, Người đều ghi rõ “tử hình”. Luật phải nghiêm, xử lý phải minh,
nghiêm minh và quang minh chính đại để bảo vệ cái thiện lớn nhất là dân. Pháp
trị đi liền với đức trị. Phải dày công giáo dục cho mọi người về lương tâm,
trách nhiệm, trọng danh dự, trọng liêm sỉ, để giữ trọn vẹn lòng trong sạch. Đó
là tính cách mạng triệt để của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền. (còn nữa)
GS, TS HOÀNG CHÍ BẢO, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
胡志明思想中的科学性、革命性、人文性(第二期)
01:38 |第二期:科学性是胡志明思想的基本、本质特征
人民军队:胡志明思想是越南共产党思想基础的特别组成部分。这一肯定首先出于胡志明关于越南革命、社会主义与越南走上社会主义道路理论的科学价值。
透彻认识,创造性解决越南革命的普遍性和特殊性
胡志明思想来自社会实践并为社会服务。社会实践就是国内历史环境,面对家破国亡,民族长期沉浸在奴隶黑夜里,要找出救国救民道路,带领民族从亡国奴身份走到独立、自由,唤醒人民的生存权、自由权和幸福追求权力。实践还是无产化劳动,将30年(1911-1941)劳动、学习、斗争和寻找真理相结合。
他老人家到西方,到法国殖民地的巢穴以了解帝国殖民主义的本质,寻找民族解放道路。该实践还是对世界情况的考察,认清友人和敌人,接受十月革命的光芒,得到马列主义觉悟,逐步积累知识和经验。考察各种学说,接受马列主义,从爱国者成为共产主义战士。在这一思想进程中,阮必成-文波-阮爱国已从实践形成革命理论,工人阶级立场和观点觉悟,正确解决阶级和民族的关系,把民族解放革命放在无产革命的轨道中,把民族力量与时代力量相结合,提高独立自主性,用自己的力量解放自己。
胡志明思想的科学性已让他老人家在接近列宁关于各民族自决权的思想时找出正确的答案,并发现越南在资本主义向社会主义过渡时期的必然规律。民族独立与社会主义紧密相连成为贯穿他老人家思想体系的红线。对于越南,民族解放要求被视为头等任务。越南社会主义是放过资本主义向社会主义过渡,这是历史的必然。胡志明主席强调,这是越南在走向社会主义道路的最大特点。再说,革命必须有党,党必须有主义为核心。党没有主义就等于人没有智慧,船只没有指南针那样。他老人家已选择马列主义,因其是最真正、最革命的主义。
由于实践观点,透彻领会马列的引导,“具体分析一个具体情况,那是马克思主义的本质和灵魂”,胡志明已正确确定越南革命的普遍性和特殊性的结合,首先体现在越南共产党成立规律--“马列主义与越南工人运动和民族爱国运动的结合”。这是他老人家的重要理论发展。
关于党的新思想和观点
作为越南革命的天才思想家、组织者,胡志明确定,理论和实践的统一是马列主义的本质和最高原则。他老人家指出:“实行产生知识,知识走到理论,理论领导实行。”这是一个大思想,渗透实践观点,是他老人家经常嘱咐我们的“理论联系实践”、“学与习并行”、“言行一致”的科学基础。
胡志明思想的科学性还体现于发展观点,革新与国际社会融入的观点。他老人家从早就有革新和融入国际社会思想。他老人家肯定:“越南希望是民主各国的朋友,越南绝不仇恨任何人”,最大限度争取国际的支持,多一个朋友,少一个敌人,建造和平环境以发展。于1947年,胡志明主席撰写《新生活》和《修改工作作风》两本书。他老人家的作品突出了“依靠人民建党”的伟大思想,特别强调干部队伍质量,领导方式、用人方式。此外,1948年《爱国竞赛号召书》,1949年《民运》等作品也深刻体现革新思想。这都是战略的重要指引,发展和巩固党和人民骨肉相连关系,让全党全民努力抗战建国注入动力。
关键问题是党要真正纯洁、强大,党的领导要正确、英明,科学、民主领导,通过树立榜样领导。胡志明思想的这一科学价值正在照耀我党当前建党整党事业。
在胡志明思想中,科学性还明显体现在他老人家关于建党整党,民主实行,民主、法权、仁义国家建设,实现和发挥人民的真正做主权;关于阵线工作,大团结实行,厉行节俭、反贪反腐反浪费等工作的观点。他老人家特别强调干部、党员树立榜样责任和道德。反个人主义像反“内侵敌人”一样,要努力提高革命道德,扫清个人主义。
胡志明关于社会主义的特色理论价值
胡志明还为社会主义与越南社会主义建设提出具有深刻科学价值的见解。他老人家为科学社会主义理论与越南特殊性社会主义建设奠定基础,并为“社会主义是什么?”这一最大的问题提供最清晰的答案。为何选择社会主义发展道路,在越南怎么建设社会主义?建设办法是什么?条件和具体步伐是什么?民族性、人民性、创造性与革新等问题都深刻体现在胡志明关于社会主义的理论。
胡志明主席认为,社会主义是“民富、国强”,是“民主和公平”,是人民的幸福。他老人家主张“为人民做有利的事,避免危害人民的利益”,“不做违背人民意愿的事”,“努力解放民力,发展民力,培育民力和节俭民力”。建设社会主义的最好办法是“用民财、民力给人民带来意义,为人民谋求幸福”,要注重同步巩固政治制度,发展经济、文化、社会和发展人,为了人民的目前和长期利益。要把各方面、各领域全面结合,与社会主义建设相结合以及以对内、对外、国防和安全力量保卫社会主义祖国。要学习和创造性地运用友国的经验教训,而不是呆板的、教条的、主观的、宗派的。
可以肯定说,胡志明思想的科学性,尤其是他老人家关于社会主义和社会主义建设的思想,其中强调“合规律、顺民心、合时代”,“让物质生活越来越丰富,精神生活越来越好,社会越来越文明进步”等要求。这是磊落马克思思想家、出色实行辩证家胡志明已指引和自我实行。成为我们今天学习和践行的的楷模。(未完待续)
Kiên quyết bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh (phần 2)
01:36 |Phần 2: Tính khoa học là đặc
tính cơ bản, cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
Việc khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận đặc biệt cấu thành
nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam bởi trước hết xuất phát từ những
giá trị khoa học sâu sắc được thể hiện trong những luận điệu đúng đắn, sáng tạo
của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam.
Nhận thức thấu đáo, giải
quyết sáng tạo tính phổ biến và tính đặc thù của cách mạng Việt Nam
Điểm xuất phát mà cũng là chỗ hướng đích của nhận thức để hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh là thực tiễn. Thực tiễn đó là hoàn cảnh lịch sử
trong nước, trước tình cảnh nước mất nhà tan, cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài
nô lệ, phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, đưa dân tộc từ vong quốc nô tới
độc lập, tự do, thức tỉnh con người về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Thực tiễn đó là lao động vô sản hóa, gắn liền lao động, học tập và
tranh đấu trong suốt cuộc hành trình đi tìm chân lý kéo dài 30 năm (1911-1941).
Người đi về phương Tây, đến tận sào huyệt của kẻ thù là nước Pháp
để tìm hiểu bản chất của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tìm ra con đường đánh đổ
nó để giải phóng dân tộc. Thực tiễn đó còn là khảo sát tình hình thế giới, nhận
rõ bạn-thù, tiếp thu ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và giác ngộ Chủ nghĩa
Mác-Lênin, từng bước một, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm. Khảo sát mọi học
thuyết để định hình bằng sự lựa chọn Chủ nghĩa Lênin, Chủ nghĩa Mác-Lênin, đạt
tới bước ngoặt từ người yêu nước trở thành người chiến sĩ cộng sản. Trong cuộc
hành trình tư tưởng ấy, Nguyễn Tất Thành-Văn Ba-Nguyễn Ái Quốc đã từ thực tiễn
mà hình thành lý luận cách mạng, giác ngộ về lập trường, quan điểm giai cấp
công nhân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp và dân tộc, đặt cách mạng
giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, nêu cao tính độc lập tự chủ “đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta”.
Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp Người tìm ra câu
trả lời đúng đắn nhất khi tiếp cận tư tưởng thiên tài của Lênin về quyền tự quyết
của các dân tộc và phát hiện ra quy luật tất yếu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
trở thành sợi chỉ đỏ, bao trùm, xuyên suốt hệ thống tư tưởng của Người. Với Việt
Nam, yêu cầu giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu trên lập trường giai cấp công
nhân. Và CNXH Việt Nam là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tới CNXH, đó là
một tất yếu lịch sử do thời đại quy định. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đó là đặc điểm
to nhất của Việt Nam trên con đường tới CNXH. Hơn nữa, cách mạng trước hết phải
có Đảng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, như con tàu không có bàn chỉ nam. Chủ nghĩa ấy, Người đã lựa
chọn là Chủ nghĩa Lênin, Mác-Lênin vì nó là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng
nhất(1).
Nhờ quan điểm thực tiễn, thấm nhuần chỉ dẫn của Lênin “phân tích cụ
thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của Chủ nghĩa Mác” mà Hồ
Chí Minh xác định đúng sự kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù của cách mạng
Việt Nam, trước hết ở trong quy luật thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam “kết hợp
Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc
Việt Nam”. Đó là những phát kiến lý luận quan trọng của Người.
Cống hiến nhiều tư tưởng,
quan điểm mới mẻ về Đảng
Là nhà tư tưởng, nhà tổ chức thiên tài của cách mạng Việt Nam, Người
xác định, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là bản chất, là nguyên tắc tối
cao của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người chỉ dẫn cho chúng ta: “Thực hành sinh ra hiểu
biết. Hiểu biết tiến lên lý luận. Lý luận lãnh đạo thực hành”(2).
Đó là một tư tưởng lớn, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, là cơ sở
khoa học để “lý luận liên hệ với thực tiễn”, “học đi đôi với hành”, “nói đi đôi
với làm” như Người thường xuyên căn dặn chúng ta.
Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ ở quan điểm
phát triển, quan điểm đổi mới gắn liền với hội nhập quốc tế. Người có tư tưởng
đổi mới, hội nhập từ rất sớm. Người đưa ra thông điệp với quốc tế và thế giới:
“Việt Nam mong muốn là bạn của các nước dân chủ, Việt Nam quyết không thù oán với
một ai”, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của quốc tế, thêm bạn bớt thù, kiến tạo môi
trường hòa bình để phát triển. Vào năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược trở lại, ở Việt Bắc, tại an toàn khu (ATK), Người viết hai
tác phẩm quan trọng “Đời sống mới” (tháng 3-1947, lấy bút danh là Tân Sinh) và
“Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10-1947, với bút danh là X.Y.Z). “Đời sống mới”
giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cái cũ và cái mới, nêu cao đạo đức cách
mạng cần, kiệm, liêm chính trong đời sống hằng ngày của mỗi người, xây dựng lối
sống mới, văn hóa mới...
“Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới khi
Đảng đã cầm quyền và trước hết phải đổi mới Đảng để thúc đẩy đổi mới xã hội, chọn
mắt khâu xung yếu, đột phá là “phải sửa đổi lối làm việc của Đảng”, tức là đổi
mới phương pháp, phương thức, phong cách lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Người
nêu ra 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng. Chỉ với 456 từ, 12 điều ấy
đã định hình một chủ thuyết, học thuyết xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền, trong
điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”.
Tác phẩm của Người nổi bật một tư tưởng lớn “dựa vào dân mà xây dựng
Đảng”, nhấn mạnh đặc biệt tới chất lượng đội ngũ cán bộ, cách lãnh đạo, cách
dùng người, kể cả trọng dụng nhân tài ngoài Đảng, có tính thời sự và hiện đại tới
ngày nay đối với Đảng ta. Người còn viết “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” (1948),
“Dân vận” (1949) cũng thấm nhuần tư tưởng đổi mới trên những định hướng khoa học-nhân
văn và dân chủ. Đó là những chỉ dẫn quan trọng có tầm chiến lược để tạo động lực
phát triển, củng cố mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, để toàn Đảng, toàn
dân nỗ lực vượt bậc làm cho “kháng chiến tất thắng”, “kiến quốc tất thành”, bằng
sức mạnh “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành
công”(3).
Vấn đề quyết định là Đảng phải thật trong sạch, thật vững mạnh, sự
lãnh đạo của Đảng phải đúng đắn, sáng suốt, lãnh đạo một cách khoa học, một
cách dân chủ, lãnh đạo bằng sự gương mẫu, nêu gương và trách nhiệm nêu gương,
nhất là của cơ quan lãnh đạo và người lãnh đạo. Giá trị khoa học này trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đang soi sáng cho Đảng ta hiện nay trong công cuộc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, thấm nhuần lời dạy của Người: “Đảng là đạo đức, là văn
minh”(4), “một tấm gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên
truyền”, một cách thực tiễn và dung dị “đảng viên đi trước, làng nước theo
sau”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính khoa học đặc biệt nổi bật khi Người
nói về “xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, về “thực hành dân chủ, xây dựng nhà nước dân
chủ-pháp quyền-nhân nghĩa” của dân, do dân, vì dân, thực hiện và phát huy quyền
làm chủ thực chất của nhân dân; về công tác mặt trận, thực hành đại đoàn kết,
thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô. Vào những năm 60 của thế
kỷ 20, khi Người chỉ đạo cuộc vận động “3 xây, 3 chống”, Người coi đây thực sự
là một cuộc cách mạng nội bộ, Người đặc biệt nhấn mạnh tới trách nhiệm và đạo đức
gương mẫu của cán bộ, đảng viên(5).
Chống chủ nghĩa cá nhân như chống “giặc nội xâm”, kẻ thù nguy hiểm
nhất, phải ra sức “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Đây là một trong những tác phẩm cuối đời của Người, cũng là chủ đề thường trực
mà Người quan tâm suốt đời, kết tinh trong bản "Di chúc" thiêng liêng
“trước hết nói về Đảng” và “đầu tiên là công việc với con người”.
Giá trị lý luận đặc sắc của
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh còn đem lại những kiến giải khoa học sâu sắc về CNXH
và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Người đặt nền móng cho lý luận CNXH khoa học và
xây dựng CNXH trong tính đặc thù Việt Nam, ở Việt Nam, đem lại câu trả lời sáng
tỏ nhất cho những câu hỏi lớn nhất: CNXH là gì? Vì sao lại lựa chọn con đường
phát triển xã hội chủ nghĩa như một tất yếu và xây dựng CNXH ở Việt Nam như thế
nào? Bằng những biện pháp, phương pháp nào? với những điều kiện và bước đi cụ
thể ra sao? Tính dân tộc, tính nhân dân, tính sáng tạo và đổi mới được thể hiện
đậm nét trong lý luận Hồ Chí Minh về CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, CNXH là “dân giàu, nước mạnh”, là “dân chủ và
công bằng”, là hạnh phúc của người dân từ cơm ăn, áo mặc, học hành đến quyền
dân chủ và làm chủ. Người chủ trương “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới
dân”, “không làm gì trái ý dân”, “ra sức giải phóng sức dân, phát triển sức
dân, bồi dưỡng sức dân và tiết kiệm sức dân”. Cách làm tốt nhất để có CNXH là
“đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân”. Phải
thấy rõ “CNXH cộng với khoa học là nguồn sức mạnh vô tận”, phải chú trọng đồng
bộ từ củng cố chế độ chính trị đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và con
người, vì lợi ích của người dân, trước mắt và lâu dài. Phải kết hợp toàn diện
các mặt, các lĩnh vực, gắn liền xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa bằng sức mạnh đối nội, đối ngoại, quốc phòng và an ninh. Phải học tập, vận
dụng sáng tạo kinh nghiệm và bài học từ các nước anh em chứ không máy móc, giáo
điều, chủ quan, biệt phái.
Có thể nói, tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư
tưởng của Người về CNXH và xây dựng CNXH nổi bật các yêu cầu “đúng quy luật,
thuận lòng dân, hợp thời đại”, sao cho “đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống
tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ”(6). Đó là quan điểm
phát triển mà nhà tư tưởng mác-xít lỗi lạc, nhà biện chứng thực hành xuất sắc Hồ
Chí Minh đã chỉ dẫn và tự mình thực hành để nêu gương cho chúng ta noi theo. (còn nữa)
GS, TS HOÀNG CHÍ BẢO, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...