Kiên quyết bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh (phần 2)
Phần 2: Tính khoa học là đặc
tính cơ bản, cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
Việc khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận đặc biệt cấu thành
nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam bởi trước hết xuất phát từ những
giá trị khoa học sâu sắc được thể hiện trong những luận điệu đúng đắn, sáng tạo
của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam.
Nhận thức thấu đáo, giải
quyết sáng tạo tính phổ biến và tính đặc thù của cách mạng Việt Nam
Điểm xuất phát mà cũng là chỗ hướng đích của nhận thức để hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh là thực tiễn. Thực tiễn đó là hoàn cảnh lịch sử
trong nước, trước tình cảnh nước mất nhà tan, cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài
nô lệ, phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, đưa dân tộc từ vong quốc nô tới
độc lập, tự do, thức tỉnh con người về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Thực tiễn đó là lao động vô sản hóa, gắn liền lao động, học tập và
tranh đấu trong suốt cuộc hành trình đi tìm chân lý kéo dài 30 năm (1911-1941).
Người đi về phương Tây, đến tận sào huyệt của kẻ thù là nước Pháp
để tìm hiểu bản chất của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tìm ra con đường đánh đổ
nó để giải phóng dân tộc. Thực tiễn đó còn là khảo sát tình hình thế giới, nhận
rõ bạn-thù, tiếp thu ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và giác ngộ Chủ nghĩa
Mác-Lênin, từng bước một, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm. Khảo sát mọi học
thuyết để định hình bằng sự lựa chọn Chủ nghĩa Lênin, Chủ nghĩa Mác-Lênin, đạt
tới bước ngoặt từ người yêu nước trở thành người chiến sĩ cộng sản. Trong cuộc
hành trình tư tưởng ấy, Nguyễn Tất Thành-Văn Ba-Nguyễn Ái Quốc đã từ thực tiễn
mà hình thành lý luận cách mạng, giác ngộ về lập trường, quan điểm giai cấp
công nhân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp và dân tộc, đặt cách mạng
giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, nêu cao tính độc lập tự chủ “đem sức ta mà tự giải phóng
cho ta”.
Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp Người tìm ra câu
trả lời đúng đắn nhất khi tiếp cận tư tưởng thiên tài của Lênin về quyền tự quyết
của các dân tộc và phát hiện ra quy luật tất yếu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
trở thành sợi chỉ đỏ, bao trùm, xuyên suốt hệ thống tư tưởng của Người. Với Việt
Nam, yêu cầu giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu trên lập trường giai cấp công
nhân. Và CNXH Việt Nam là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tới CNXH, đó là
một tất yếu lịch sử do thời đại quy định. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đó là đặc điểm
to nhất của Việt Nam trên con đường tới CNXH. Hơn nữa, cách mạng trước hết phải
có Đảng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, như con tàu không có bàn chỉ nam. Chủ nghĩa ấy, Người đã lựa
chọn là Chủ nghĩa Lênin, Mác-Lênin vì nó là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng
nhất(1).
Nhờ quan điểm thực tiễn, thấm nhuần chỉ dẫn của Lênin “phân tích cụ
thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của Chủ nghĩa Mác” mà Hồ
Chí Minh xác định đúng sự kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù của cách mạng
Việt Nam, trước hết ở trong quy luật thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam “kết hợp
Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc
Việt Nam”. Đó là những phát kiến lý luận quan trọng của Người.
Cống hiến nhiều tư tưởng,
quan điểm mới mẻ về Đảng
Là nhà tư tưởng, nhà tổ chức thiên tài của cách mạng Việt Nam, Người
xác định, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là bản chất, là nguyên tắc tối
cao của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người chỉ dẫn cho chúng ta: “Thực hành sinh ra hiểu
biết. Hiểu biết tiến lên lý luận. Lý luận lãnh đạo thực hành”(2).
Đó là một tư tưởng lớn, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, là cơ sở
khoa học để “lý luận liên hệ với thực tiễn”, “học đi đôi với hành”, “nói đi đôi
với làm” như Người thường xuyên căn dặn chúng ta.
Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ ở quan điểm
phát triển, quan điểm đổi mới gắn liền với hội nhập quốc tế. Người có tư tưởng
đổi mới, hội nhập từ rất sớm. Người đưa ra thông điệp với quốc tế và thế giới:
“Việt Nam mong muốn là bạn của các nước dân chủ, Việt Nam quyết không thù oán với
một ai”, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của quốc tế, thêm bạn bớt thù, kiến tạo môi
trường hòa bình để phát triển. Vào năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược trở lại, ở Việt Bắc, tại an toàn khu (ATK), Người viết hai
tác phẩm quan trọng “Đời sống mới” (tháng 3-1947, lấy bút danh là Tân Sinh) và
“Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10-1947, với bút danh là X.Y.Z). “Đời sống mới”
giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cái cũ và cái mới, nêu cao đạo đức cách
mạng cần, kiệm, liêm chính trong đời sống hằng ngày của mỗi người, xây dựng lối
sống mới, văn hóa mới...
“Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới khi
Đảng đã cầm quyền và trước hết phải đổi mới Đảng để thúc đẩy đổi mới xã hội, chọn
mắt khâu xung yếu, đột phá là “phải sửa đổi lối làm việc của Đảng”, tức là đổi
mới phương pháp, phương thức, phong cách lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Người
nêu ra 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng. Chỉ với 456 từ, 12 điều ấy
đã định hình một chủ thuyết, học thuyết xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền, trong
điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”.
Tác phẩm của Người nổi bật một tư tưởng lớn “dựa vào dân mà xây dựng
Đảng”, nhấn mạnh đặc biệt tới chất lượng đội ngũ cán bộ, cách lãnh đạo, cách
dùng người, kể cả trọng dụng nhân tài ngoài Đảng, có tính thời sự và hiện đại tới
ngày nay đối với Đảng ta. Người còn viết “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” (1948),
“Dân vận” (1949) cũng thấm nhuần tư tưởng đổi mới trên những định hướng khoa học-nhân
văn và dân chủ. Đó là những chỉ dẫn quan trọng có tầm chiến lược để tạo động lực
phát triển, củng cố mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, để toàn Đảng, toàn
dân nỗ lực vượt bậc làm cho “kháng chiến tất thắng”, “kiến quốc tất thành”, bằng
sức mạnh “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành
công”(3).
Vấn đề quyết định là Đảng phải thật trong sạch, thật vững mạnh, sự
lãnh đạo của Đảng phải đúng đắn, sáng suốt, lãnh đạo một cách khoa học, một
cách dân chủ, lãnh đạo bằng sự gương mẫu, nêu gương và trách nhiệm nêu gương,
nhất là của cơ quan lãnh đạo và người lãnh đạo. Giá trị khoa học này trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đang soi sáng cho Đảng ta hiện nay trong công cuộc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, thấm nhuần lời dạy của Người: “Đảng là đạo đức, là văn
minh”(4), “một tấm gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên
truyền”, một cách thực tiễn và dung dị “đảng viên đi trước, làng nước theo
sau”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính khoa học đặc biệt nổi bật khi Người
nói về “xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, về “thực hành dân chủ, xây dựng nhà nước dân
chủ-pháp quyền-nhân nghĩa” của dân, do dân, vì dân, thực hiện và phát huy quyền
làm chủ thực chất của nhân dân; về công tác mặt trận, thực hành đại đoàn kết,
thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô. Vào những năm 60 của thế
kỷ 20, khi Người chỉ đạo cuộc vận động “3 xây, 3 chống”, Người coi đây thực sự
là một cuộc cách mạng nội bộ, Người đặc biệt nhấn mạnh tới trách nhiệm và đạo đức
gương mẫu của cán bộ, đảng viên(5).
Chống chủ nghĩa cá nhân như chống “giặc nội xâm”, kẻ thù nguy hiểm
nhất, phải ra sức “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Đây là một trong những tác phẩm cuối đời của Người, cũng là chủ đề thường trực
mà Người quan tâm suốt đời, kết tinh trong bản "Di chúc" thiêng liêng
“trước hết nói về Đảng” và “đầu tiên là công việc với con người”.
Giá trị lý luận đặc sắc của
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh còn đem lại những kiến giải khoa học sâu sắc về CNXH
và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Người đặt nền móng cho lý luận CNXH khoa học và
xây dựng CNXH trong tính đặc thù Việt Nam, ở Việt Nam, đem lại câu trả lời sáng
tỏ nhất cho những câu hỏi lớn nhất: CNXH là gì? Vì sao lại lựa chọn con đường
phát triển xã hội chủ nghĩa như một tất yếu và xây dựng CNXH ở Việt Nam như thế
nào? Bằng những biện pháp, phương pháp nào? với những điều kiện và bước đi cụ
thể ra sao? Tính dân tộc, tính nhân dân, tính sáng tạo và đổi mới được thể hiện
đậm nét trong lý luận Hồ Chí Minh về CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, CNXH là “dân giàu, nước mạnh”, là “dân chủ và
công bằng”, là hạnh phúc của người dân từ cơm ăn, áo mặc, học hành đến quyền
dân chủ và làm chủ. Người chủ trương “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới
dân”, “không làm gì trái ý dân”, “ra sức giải phóng sức dân, phát triển sức
dân, bồi dưỡng sức dân và tiết kiệm sức dân”. Cách làm tốt nhất để có CNXH là
“đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân”. Phải
thấy rõ “CNXH cộng với khoa học là nguồn sức mạnh vô tận”, phải chú trọng đồng
bộ từ củng cố chế độ chính trị đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và con
người, vì lợi ích của người dân, trước mắt và lâu dài. Phải kết hợp toàn diện
các mặt, các lĩnh vực, gắn liền xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa bằng sức mạnh đối nội, đối ngoại, quốc phòng và an ninh. Phải học tập, vận
dụng sáng tạo kinh nghiệm và bài học từ các nước anh em chứ không máy móc, giáo
điều, chủ quan, biệt phái.
Có thể nói, tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư
tưởng của Người về CNXH và xây dựng CNXH nổi bật các yêu cầu “đúng quy luật,
thuận lòng dân, hợp thời đại”, sao cho “đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống
tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ”(6). Đó là quan điểm
phát triển mà nhà tư tưởng mác-xít lỗi lạc, nhà biện chứng thực hành xuất sắc Hồ
Chí Minh đã chỉ dẫn và tự mình thực hành để nêu gương cho chúng ta noi theo. (còn nữa)
GS, TS HOÀNG CHÍ BẢO, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét