Home » Archives for tháng 10 2021
越英关系的合作新视野
05:43 |越南与英国的合作关系经过48年的培育和发展,在各个领域上取得了许多良好的成果,特别是在携手抗击新冠肺炎疫情方面。这也为今后越英两国开辟新的合作前景奠定了坚实的基础,为两国乃至亚欧两大洲的稳定与发展作出了务实的贡献。
越南与英国于1973年正式建立外交关系。2010年,两国将双边关系提升为战略伙伴关系,掀开了双边关系发展史上的美好新篇章。近半个世纪以来,越英两国的良好友谊与合作关系得到两国政府和人民不断维护和培育,在各个领域上收获了许多合作的“甜果”。英国在越南开展的投资经营项目,各项促进文化交流和教育的活动,如合作制定师资培训项目、教育技术转让培训等为加深两国人民之间的关系作出重要贡献,成为越英关系生动而富有意义的象征。
2020 年 12 月 29 日标志着越英关系的一个重要里程碑,即两国正式签署了《越英自由贸易协定》(UKVFTA)。凭借该协定,越英经贸合作的大门敞开了。UKVFTA予以签署对两国具有非常重要和切实的意义,尤其是在世界各国正努力迅速恢复受新冠肺炎大流行影响的经济的背景下。该协定也有望为双方有效挖掘合作潜力,促进贸易往来、投资,实现可持续发展,助力推进亚欧两大洲经济对接的“黄金”机遇。英国驻越南大使加雷斯•沃德评价说,UKVFTA的签署是一个转折点,适值纪念越英建立战略伙伴关系10周年之际,这是标志着越英关系中的重要里程碑。
在传统关系的基础上,在新冠肺炎大流行肆虐的背景下,越南和英国人民继续发扬团结和分享的精神。2020年,在英国受疫情影响严重的时候,越南各机构、组织和企业向英国捐赠了数十万只口罩,帮助英国拥有更多的健康防护工具。英方对越方愿与英方共享资源、团结一致抗击疫情的崇高义举深表感谢和感激。英国发扬互助精神,积极支持越南防控疫情。英国是“全球新冠疫苗获取机制”(COVAX)的主要贡献者,其提供的疫苗由阿斯利康和牛津大学联合开发的。英国外交与发展大臣多米尼克•拉布宣布,英方愿鼓励并与阿斯利康进行协商,进行转让技术,协助越南建设自己的疫苗生产能力。2021年7月中旬,英国驻越南大使馆正式宣布,英国政府向越南捐赠41.5万剂阿斯利康疫苗。
越南驻大不列颠及北爱尔兰联合王国大使阮黄龙曾经表示,越英双边关系正处于最佳阶段,发展潜力有待挖出。在两国几代人民的共同努力培育下,越英友好关系将继续通过经济、文化、医疗、教育等方面上的合作桥梁不断延伸,为两国关系开辟新视野作出贡献。
Chân trời hợp tác mới của quan hệ Việt Nam - Anh
05:33 |Quan hệ hợp tác giữa Việt
Nam và Vương quốc Anh đã trải qua 48 năm vun đắp và phát triển, gặt hái nhiều
thành tựu tốt đẹp trong mọi lĩnh vực, nhất là về chung tay đẩy lùi
dịch Covid-19. Ðây cũng chính là tiền đề vững chắc mở ra những chân trời hợp
tác mới đầy triển vọng cho Việt Nam và Anh trong tương lai, đóng góp
thiết thực vào sự ổn định và phát triển của hai nước cũng như của hai
khu vực Á - Âu.
Việt Nam và Anh chính
thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1973. Năm 2010, hai nước nâng cấp
quan hệ lên đối tác chiến lược, mở ra chương mới tươi đẹp trong lịch sử phát
triển quan hệ song phương. Trong suốt gần nửa thế kỷ qua, mối quan hệ
hữu nghị, hợp tác tốt đẹp Việt Nam - Anh đã được Chính phủ và nhân dân
hai nước không ngừng gìn giữ và vun đắp, gặt hái nhiều “quả ngọt” trên mọi
lĩnh vực hợp tác. Các dự án đầu tư kinh doanh của Anh tại Việt Nam, những
hoạt động thúc đẩy giao lưu văn hóa, giáo dục như hợp tác xây dựng chương
trình bồi dưỡng giáo viên, đào tạo chuyển giao công nghệ trong giáo
dục… đã góp phần quan trọng thắt chặt sợi dây gắn kết giữa nhân dân hai nước;
trở thành biểu tượng sinh động, ý nghĩa cho mối quan hệ Việt Nam - Anh.
Ngày 29/12/2020 đánh một
dấu mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Anh khi hai nước chính thức ký
kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc
Ireland (UKVFTA). Với hiệp định này, cánh cửa cho hợp tác kinh tế - thương
mại giữa Việt Nam và Anh đã rộng mở. Việc đạt được UKVFTA có ý nghĩa hết sức
quan trọng và thiết thực đối với cả hai nước, đặc biệt khi các quốc gia trên thế
giới đều đang nỗ lực nhanh chóng phục hồi nền kinh tế chịu ảnh hưởng bởi đại dịch
Covid-19. Hiệp định này cũng được kỳ vọng mang đến những cơ hội “vàng” để hai
bên khai thác hiệu quả tiềm năng hợp tác, đẩy mạnh trao đổi thương mại, đầu tư,
phát triển bền vững và góp phần thúc đẩy liên kết kinh tế liên khu vực Á - Âu.
Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam Gareth Ward đánh giá, việc đạt được UKVFTA
là bước ngoặt, là sự kiện đánh dấu mốc quan trọng trong quan hệ giữa Vương quốc
Anh và Việt Nam nhân dịp hai nước kỷ niệm 10 năm quan hệ đối tác chiến lược.
Trên nền tảng mối quan
hệ tốt đẹp truyền thống, tinh thần đoàn kết và sẻ chia tiếp tục được nhân
dân hai nước Việt Nam và Anh nêu cao trong bối cảnh đại dịch Covid-19
hoành hành. Năm 2020, khi nước Anh chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch
bệnh, các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam đã tặng “xứ sở
sương mù” hàng trăm nghìn khẩu trang, giúp Anh có thêm phương tiện bảo vệ sức
khỏe người dân. Phía Anh gửi lời cảm ơn sâu sắc và bày tỏ xúc động trước nghĩa
cử cao đẹp của Việt Nam khi sẵn sàng chia sẻ nguồn lực, đoàn kết với nước Anh
trong cuộc chiến cam go chống dịch bệnh. Phát huy tinh thần tương thân tương
ái, Anh cũng tích cực hỗ trợ Việt Nam phòng, chống dịch. Anh là nước
đóng góp nhiều cho Cơ chế tiếp cận vắc-xin toàn cầu COVAX, với vắc-xin do Hãng
dược AstraZeneca và Đại học Oxford cùng phát triển. Bộ trưởng Ngoại giao và
Phát triển Anh Dominic Raab tuyên bố, Anh sẵn sàng trao đổi, vận động Hãng
AstraZeneca chuyển giao công nghệ, hỗ trợ Việt Nam xây dựng năng lực tự sản xuất
vắc-xin. Hồi giữa tháng 7/2021, Đại sứ quán Anh tại Việt Nam ra công hàm
chính thức thông báo rằng, Chính phủ Anh tặng Việt Nam 415.000 liều vắc-xin
AstraZeneca.
Đại sứ Việt Nam tại
Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland Nguyễn Hoàng Long từng nhận định, mối
quan hệ song phương giữa Việt Nam và Anh đang trong giai đoạn tốt đẹp nhất và vẫn
còn nhiều tiềm năng để phát triển. Với nỗ lực vun đắp của các thế hệ nhân dân
hai nước, mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Anh sẽ tiếp tục được nối dài bởi
những nhịp cầu hợp tác kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục..., góp phần mở ra những
chân trời mới cho quan hệ song phương.
nhandan.vn
继续肯定越南在东盟的形象和作用
09:37 |2021年规模最大的官方多边外交活动——第38届、第39届东盟峰会及相关会议刚刚落下帷幕。
这些会议的结果体现了东盟应对地区内挑战的共识,继续提高东盟在双边和多边合作机制中的核心作用。越南政府总理范明政出席峰会并为会议取得的切实结果做出贡献彰显了越南在地区和国际上的形象和作用。
第38届、39届东盟峰会及相关会议是在东盟正面临内部和外部重重困难的背景下召开的,其中包括东盟各国新冠肺炎疫情演变复杂,一些东盟成员国局势动荡。此外,域外大国激烈、复杂竞争,并直接影响东盟的角色、形象和活动。
东盟能够召开本次会议并吸引各个伙伴国的领导人出席既是东盟应对上述挑战的答案,也是对东盟精神和价值观的肯定,其中以对话与合作作为实现和平与稳定的工具.
当前,东盟正面临的防控疫情合作、促进可持续复苏、在新常态下推动社会经济发展等是本届峰会的主要议题。除此之外,包括东海问题在内的国际和地区问题也是东盟及伙伴国十分关心,并主动、积极、负责任讨论的问题。
本届峰会取得的突出成果是,东盟团结一致共同建设共同体。
促进本地区的和平与稳定仍是整个东盟,包括每个成员国的共同目标。
此外,域外伙伴特别重视东盟,承诺与东盟合作有效控制疫情,合作应对气候变化、环境污染、资源枯竭等新兴挑战,同时还表明,可持续复苏是所有国家今后努力的优先事项。
特别是东海、缅甸、朝鲜等对地区和平、稳定与发展、缩小发展差距造成影响的议题继续得到与会代表深广讨论。
各国都高度评价东盟发挥的核心作用,愿与本地区透明分享各自的举措,并强调和平与稳定是共同目标,法律至上与坦诚对话和有效合作是实施这一目标的关键工具。
以团结、合作、愿作国际社会的可信赖朋友、伙伴和负责任成员为精神,越南出席会议并交流和分享所有相关内容。
越南提出的多项建议得到各国的肯定、支持和响应,越南为递交峰会讨论的约100份文件的拟定过程做出了重大贡献。
关于新冠肺炎疫情,越南政府总理范明政在会上发表讲话,提出实施全民安全适应、灵活应对和有效防疫的新战略,推动社会经济复苏和发展,人民和企业既是防疫工作的中心,也是经济复苏发展的主体等,受到了各国的欢迎和响应。越南在会上提出的可持续复苏等建议受到各国关注和分享。越南就东海问题、促进次区域发展并与东盟总体发展相结合、加强地区联系等地区和国际问题坦率、诚挚、透明阐述观点,并被列入峰会文件。
除了峰会取得的共同成功外,越南的贡献也继续肯定越南在地区和世界上的形象和作用。
Tiếp tục khẳng định hình ảnh và vai trò của Việt Nam trong ASEAN
08:35 |Hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ 38, 39 và các Hội nghị cấp cao liên quan, hoạt động đối ngoại đa phương
chính thức có quy mô nhất trong năm 2021 vừa kết thúc. Kết quả của các Hội nghị
lần này khẳng định sự đồng thuận của ASEAN trong việc xử lý các thách thức nội
khối, tiếp tục phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong các cơ chế hợp tác
song phương và đa phương.
Hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ 38, 39 và các Hội nghị cấp cao liên quan được tổ chức trong bối cảnh
ASEAN đang đối diện với rất nhiều khó khăn cả trong lẫn ngoài. Tại các nước
ASEAN, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, tình hình các nước thành viên có
những bất ổn. Bên ngoài, cạnh tranh nước lớn diễn ra sâu rộng, phức tạp và trực
tiếp ảnh hưởng tới vai trò, hình ảnh và các hoạt động của ASEAN. Việc ASEAN tổ
chức được các hội nghị lần này với sự tham gia của tất cả lãnh đạo các nước đối
tác là câu trả lời của Hiệp hội với những thách thức đó, cũng là lời khẳng định
tinh thần và giá trị của ASEAN, lấy đối thoại và hợp tác làm công cụ hướng tới
hòa bình và ổn định.
Những vấn đề hiện đang
đặt ra cho ASEAN như hợp tác phòng chống và kiểm soát dịch bệnh, thúc đẩy phục
hồi bền vững, phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện bình thường mới là nội
dung chính của chương trình nghị sự lần này. Cùng với đó, các vấn đề quốc tế và
khu vực, trong đó có Biển Đông, là những nội dung ASEAN và các nước đối tác
đang hết sức quan tâm, thảo luận chủ động, tích cực và có trách nhiệm.
Hội nghị đạt được những
kết quả nổi bật. Đó là, ASEAN đoàn kết, nhất trí hướng tới xây dựng Cộng đồng.
Đóng góp cho hòa bình, ổn định trong khu vực tiếp tục là mục tiêu chung của
ASEAN nói chung và từng nước thành viên nói riêng. Bên cạnh đó, các đối tác bên
ngoài vẫn đặc biệt coi trọng ASEAN, cam kết cùng ASEAN hợp tác kiểm soát hiệu
quả dịch bệnh, hợp tác ứng phó với các thách thức đang nổi lên, trong đó có biến
đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, đồng thời cũng cho thấy
phục hồi bền vững vẫn là nội dung được hầu hết các nước đặt ưu tiên, phấn đấu đạt
được trong thời gian tới.
Đặc biệt, những nội
dung ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định, phát triển trong khu vực như vấn đề Biển
Đông, Myanmar,Triều Tiên, thu hẹp khoảng cách phát triển tiếp tục được đề cập
sâu rộng và trao đổi sâu tại các hội nghị. Tất cả các nước đều đánh giá cao vai
trò trung tâm của ASEAN, sẵn sàng chia sẻ minh bạch về các bước đi của mình với
khu vực và khẳng định hòa bình, ổn định là mục tiêu chung, thượng tôn pháp luật,
đối thoại thẳng thắn, hợp tác hiệu quả là những công cụ chủ yếu để đạt tới mục
tiêu này. Bên cạnh đó, các nước đề cao tinh thần trách nhiệm, ứng xử minh bạch,
quan hệ hài hòa là cơ sở cho quan hệ giữa các nước trong và ngoài khu vực.
Trên tinh thần đoàn kết,
hợp tác, sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, Việt Nam đã tham gia trao đổi, chia sẻ trên tất cả các nội dung của
các hội nghị. Nhiều ý kiến của Việt Nam được các nước ghi nhận, ủng hộ và hướng
ứng.Việt Nam đã đóng góp hết sức trách nhiệm vào việc xây dựng khoảng 100 văn
kiện đệ trình lên các nhà Lãnh đạo thông qua, ghi nhận tại Hội nghị lần này.
Liên quan đến dịch bệnh
COVID-19, những phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về chiến lược
mới với cách tiếp cận toàn dân để thích ứng an toàn, ứng phó linh hoạt, kiểm
soát hiệu quả đại dịch COVID-19, song song với đẩy mạnh phục hồi và phát triển
kinh tế - xã hội cũng như người dân và doanh nghiệp vừa là trung tâm vừa là chủ
thể trong nỗ lực ứng phó dịch bệnh và cả trong phục hồi kinh tế và phát triển
kinh tế-xã hội đã được các nước hoan nghênh, hưởng ứng. Những đề xuất của Việt
Nam liên quan tới phục hồi bền vững nhận được sự quan tâm và chia sẻ của các nước
tại các hội nghị. Cách tiếp cận thẳng thắn, chân thành, minh bạch của Việt Nam
về các vấn đề khu vực và quốc tế, trong đó có vấn đề Biển Đông, thúc đẩy phát
triển tiểu vùng gắn với tổng thể phát triển chung của ASEAN, đẩy mạnh liên kết
khu vực, đã được phản ánh đầy đủ trong văn kiện của các hội nghị.
Bên cạnh những thành công chung của các hội nghị, đóng góp của Việt Nam tiếp tục khẳng định hình ảnh và vai trò của Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
根据联合国人权理事会的建议,越南推动人权保障
03:54 |越南正在努力全面、认真落实联合国人权理事会(UN)第三轮普遍定期审议(UPR)的建议,并在促进和保障人权方面取得了实质性进展,特别是在劳工、社会和性别平等领域。这一成果是本着不让任何人掉队的精神继续贯彻落实国家全面发展的愿景、战略路线的基础。
越南于 2019 年 1 月正式接受联合国人权理事会第三轮普遍定期审议的241项建议,并配套和全面实施了这些建议。
尽管第三轮普遍定期审议只进行了一半进程,但与本地区其他国家相比,越南在劳动、社会和性别平等领域保障和促进人权方面取得了许多令人瞩目的成就。
关于完善法律框架和国家劳动政策,越南 2019 年版《劳动法》与越南加入的国际劳工组织(ILO)和联合国人权公约相一致。
越南也正在编制加入国际劳工组织关于《结社自由和保护组织权利》的87
号公约的档案,并准备加入联合国《保护所有移徙工人及其家庭成员权利国际公约》(CRMW)。这些努力旨在完善关于保障和推动人权的国家法律体系和机构,使越南更接近国际标准
近年来,越南扶贫减贫和社会保障工作取得了显著成绩。 2016-2020年阶段末,全国贫困户比例约为2.75%, 5年间每年平均下降约1.43%;贫困县的贫困户比例约为24%,5年间每年平均下降5.65%。 2021-2030 年可持续减贫和社会保障国家目标计划主要实现多维度、包容性和可持续减贫;限制返贫和新发贫困;帮助贫困人口可持续超越最低生活水平,充分享受社会基本服务,提高生活质量和促进贫困村庄摆脱贫困。该计划还重视提高人力资源质量,为贫困人口和在贫困地区生活的人们创造全面和最好的就业机会;减少社会不平等现象,确保发展经济与保障社会民生的可持续平衡。
在推动性别平等方面,2020 年 12 月 28 日,越南政府总理发布了第 2282 号决定,批准《2021-2030 年阶段加强妇女对决策层面的领导和管理职位的平等参与》计划,旨在充分发挥妇女的创造力,落实关于性别平等和向妇女赋权等可持续发展目标的承诺。
2021 年
3 月 3 日,政府又颁布关于 2021-2030 年阶段国家性别平等战略的第
28号决议,以进一步缩小性别差距,使妇女能与男性平等参与社会生活的所有领域和享有利益,为国家的可持续发展事业做出贡献。
按照越共十三大的主张和政策,继续实施第三轮普遍定期审议的建议表明在新冠肺炎疫情造成的困难背景下,越南仍坚持保障人权, 特别是保障弱势群体人权的一贯承诺和努力。过去一段时间,越南实施第三轮普遍定期审议建议的结果确保了全体人民充分享有人权,这体现了越南党和国家的政策以“不让任何人掉队”为贯穿性目标的人文性。
Việt Nam thúc đẩy quyền con người theo khuyến nghị của Hội đồng nhân quyền LHQ
03:42 |Việt Nam đang nỗ lực thực
hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc các khuyến nghị theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ
quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) và có nhiều
bước tiến thực chất trong việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người, đặc biệt
trong lĩnh vực lao động, xã hội và bình đẳng giới. Thành quả này là cơ sở để tiếp
tục triển khai tầm nhìn, đường lối,chiến lược phát triển toàn diện đất nước với
tinh thần không để người dân nào bị bỏ lại phía sau.
Việt Nam chính thức chấp
thuận 241 khuyến nghị UPR chu kỳ III vào tháng 1/2019 và đã triển khai thực hiện
các khuyến nghị một cách đồng bộ, toàn diện. Mặc dù mới đi được nửa chặng đường
của UPR chu kỳ III, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu ấn tượng so với các nước
trong khu vực trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở lĩnh vực lao động,
xã hội và bình đẳng giới.
Mặc dù mới đi được nửa
chặng đường của UPR chu kỳ III, Việt Nam ghi dấu nhiều thành tựu ấn tượng so với
các nước trong khu vực trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở lĩnh vực
lao động, xã hội và bình đẳng giới. Ảnh: Nguyễn Hồng
Về việc cải thiện khuôn
khổ pháp lý và chính sách lao động quốc gia, Bộ luật Lao động 2019 của Việt Nam
hiện đã đảm bảo tương thích với các công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
và LHQ về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập. Việt Nam cũng đang xây dựng
hồ sơ gia nhập Công ước số 87 của ILO về Tự do hiệp hội và bảo vệ quyền được tổ
chức và chuẩn bị cho việc tham gia Công ước quốc tế của LHQ về Bảo vệ quyền của
tất cả những người lao động di cư và các thành viên gia đình họ (CRMW)… Các nỗ
lực này nhằm hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật quốc gia về bảo đảm và thúc
đẩy quyền con người, đưa Việt Nam đến gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế
Công tác giảm nghèo và
an sinh xã hội của Việt Nam thời gian qua đạt thành tựu nổi bật. Trong giai đoạn
2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn khoảng 2,75%, bình quân trong 5 năm giai
đoạn giảm khoảng 1,43%/năm; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 24%,
bình quân trong 5 năm giảm 5,65%/năm. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo
và an sinh xã hội bền vững 2021-2030 hướng tới giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền
vững; hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo vượt lên mức sống
tối thiểu bền vững, tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản, nâng cao chất lượng
cuộc sống và các địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn.
Chương trình cũng chú
trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm đầy đủ, việc làm tốt cho
người nghèo, người dân sinh sống trên địa bàn nghèo; giảm bất bình đẳng xã hội,
đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế và an sinh xã hội bền vững. Để tiếp tục
thực hiện các khuyến nghị UPR, Bộ Lao động, thương binh và xã hội, (LĐTBXH), vừa
trình lên Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định quy trình rà soát,
xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình giai đoạn 2021-2025.
Bộ LĐTBXH đồng thời triển khai nghiên cứu, sửa đổi bổ sung các chính sách giảm
nghèo đa chiều (việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông
tin) theo hướng tăng cường hỗ trợ, hướng tới tạo việc làm và thu nhập bền vững,
giảm chính sách cho không để giảm nghèo bền vững.
Trong lĩnh vực thúc đẩy
bình đẳng giới, ngày 28/12/2020, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định
số 2282/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình “Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ
nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách giai đoạn
2021-2030 đã đảm bảo sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo
và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách nhằm phát huy tiềm năng, sức sáng tạo
của phụ nữ, hướng tới thực hiện cam kết đạt mục tiêu phát triển bền vững về
bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ.
Ngày 3/3/2021, Chính phủ
tiếp tục ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2021-2030 hướng tới mục tiêu tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo
điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhằm triển khai thực hiện các khuyến nghị UPR về bình đẳng giới, Bộ Lao động
Thương binh Xã hội cũng tăng cường việc triển khai các quy định pháp luật về
lao động, việc làm; thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2021-2030, trong đó tập trung vào các mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực
chính trị, kinh tế, lao động. Cùng với đó, Luật Bình đẳng giới cũng tiếp tục được
nghiên cứu, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới.
Việc tiếp tục thực hiện các khuyến nghị UPR chu kỳ III phù hợp với chủ trương, chính sách được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã phản ánh những cam kết, nỗ lực nhất quán của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người, nhất là những nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh khó khăn của đại dịch Covid-19.Thực tiễn triển khai các khuyến nghị UPR chu kỳ III thời gian qua đã đảm bảo rõ việc toàn dân được thụ hưởng quyền con người, qua đó thể hiện tính nhân văn trong các quyết sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam với mục tiêu xuyên suốt là “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
越南迈向蓝色海洋经济
09:15 |越南将于2021年12月举办适应气候变化的可持续海洋经济国际会议,这是非常必要的,有助于加强越南在发展可持续及适应气候变化的海洋经济方面的地位,进而携手应对全球共同挑战。
可持续海洋经济(蓝色经济)是一个新兴概念,指的是以综合、可持续的方式发展的海洋经济活动。海洋经济包括不同的经济部门,如:可再生能源、海洋和沿海旅游、渔业和水产养殖、航运、废弃物管理和海洋保护等。
可持续的海洋经济不仅仅将海洋视为经济资源的唯一来源,而且还呼吁在追求改善人类的福祉、福利和社会公平的同时要保护和恢复自然资源。
根据统计总局和世界银行的数据,越南有超过7000万人(约占总人口的72%)居住在全国28个沿海省市、九龙江平原(湄公河三角洲)和红河平原。国内稻米83%的产量集中在平原和沿海省份。这也是全国一个充满活力的发展区域。
然而,由于自然和人为原因,许多城市和沿海平原有时以远高于海平面上升的速度下沉,此外,城市基础设施承受着巨大压力。与气候相关的安全风险也是一个重要的新问题。气候变化加剧并造成了全球、区域和国家包括移民、重新安置以及争取日益稀缺的自然资源的冲突等方面的压力。
正是在这种背景下,越南已选择与国际社会保持密切合作可持续发展海洋经济。
作为联合国安理会 2020-2021 年任期的非常任理事国以及作为2020 年东盟轮值主席国时所做出的承诺,越南愿为联合国、国际社会在确保和平、安全
、COVID-19 大流行之后更好的恢复和重建、解决海洋污染和海洋塑料废弃物问题做出更多贡献,以发展可持续且具备对气候变化的适应能力的海洋经济,并继续肯定越南是国际社会的积极、可靠和负责任的一员。
今年12月份,越南将举办关于适应气候变化的可持续海洋经济的国际会议,其将展示越南在发展适应气候变化的可持续海洋经济、与世界各国携手应对全球共同挑战等方面的作用。
红云
Việt Nam hướng đến kinh tế biển xanh
09:03 |Việt Nam đăng cai chủ
trì tổ chức hội nghị quốc tế về kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với
BĐKH dự kiến tháng 12 năm 2021 thực sự cần thiết, góp phần quan trọng nâng cao
vai trò của Việt Nam phát triển bền vững kinh tế đại dương, thích ứng với BĐKH;
chung tay giải quyết các vấn đề thách thức chung toàn cầu.
Kinh tế đại dương bền vững
hay kinh tế canh (Blue Economy), là một khái niệm mới nổi dùng để chỉ sự phát
triển của các hoạt động kinh tế biển một cách tổng hợp và bền vững. Kinh tế biển
bao gồm các lĩnh vực kinh tế khác nhau: năng lượng tái tạo, du lịch biển và ven
biển, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, vận tải biển, quản lý chất thải và bảo tồn
biển.
Cách tiếp cận kinh tế
biển bền vững thường vượt ra ngoài việc coi đại dương là nơi cung cấp các nguồn
lực kinh tế duy nhất, mà còn kêu gọi bảo vệ và phục hồi các nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong khi tìm cách cải thiện phúc lợi của con người và công bằng xã
hội. Cách tiếp cận như vậy phải lường trước và kết hợp đầy đủ các tác động của
biến đổi khí hậu và đảm bảo rằng các hoạt động ứng phó với COVID-19 (kể cả các
gói cứu trợ kinh tế) sẽ đóng góp vào việc phục hồi tốt hơn, vì một nền kinh tế
biển công bằng, bền vững và có khả năng chống chịu hơn.
Đối với các quốc gia
đang phát triển và dễ bị tổn thương, việc xây dựng các chiến lược thích ứng đầy
đủ và nâng cao khả năng chống chịu cho các cộng đồng dễ bị tổn thương là điều
vô cùng quan trọng do những cộng đồng này phải chịu tác động của BĐKH và khủng
hoảng COVID-19; đồng thời họ cũng bị tổn thương do thiếu nguồn tài chính, sinh
kế thay thế hạn chế, thiếu mạng lưới an sinh xã hội và an ninh lương thực. Nếu
không tiến hành các biện pháp thích ứng, theo các số liệu dự báo, mực nước biển
dâng sẽ làm tăng rủi ro bão, lũ và ngập úng làm hàng triệu người phải di dời,
gây thiệt hại đáng kể đến mạng sống, tài sản, cơ sở hạ tầng, sinh kế và môi trường
sống, đe dọa an ninh lương thực do đứt gãy chuỗi cung ứng thực phẩm và các hệ
thống phân phối.
Tiếp cận nguồn tài
chính là điều vô cùng quan trọng để phát triển tốt hơn sau khủng hoảng COVID-19
và giải quyết các vấn đề BĐKH nhằm đảm bảo một nền kinh tế biển có khả năng chống
chịu khí hậu và đạt được các mục tiêu SDG 13 và 14. Các quốc gia đã phát triển
cam kết huy động nguồn tài chính khí hậu 100 tỷ USD mỗi năm tới năm 2020 cho
các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, các hoạt động đầu tư trên thực tế vẫn
chưa đạt được mức này. Kinh tế biển thường bị sao lãng trong các biện pháp kích
cầu COVID-19 cho tới nay, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch đang có các tác động
nghiêm trọng đối với người lao động, các cộng đồng và các lĩnh vực phụ thuộc
vào Kinh tế biển. Trong thập kỷ này, các quốc gia sẽ cần tìm hiểu các cơ hội và
nguồn tài chính khí hậu khác nhau, ví dụ huy động nguồn tài chính đòn bẩy từ
khu vực tư nhân, nghiên cứu trái phiếu xanh và triển khai các chương trình bảo
hiểm rủi ro khí hậu.
Theo các số liệu từ Tổng
cục Thống kê và Ngân hàng thế giới, Việt Nam có hơn 70 triệu người (khoảng 72%
tổng dân số) sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển của cả nước, đồng bằng sông Cửu
Long và sông Hồng. 83% sản lượng gạo trong nước cũng tập trung ở các tỉnh đồng
bằng và ven biển thấp. Đây cũng là khu vực phát triển năng động của cả nước.
Tuy nhiên, hiện nhiều
thành phố và đồng bằng ven biển đang bị sụt lún ở tốc độ đôi khi còn cao hơn
nhiều tốc độ mực nước biển dâng do các nguyên nhân tự nhiên và con người, và cơ
sở hạ tầng đô thị đang gặp áp lực lớn. Các rủi ro an ninh liên quan đến khí hậu
cũng là một vấn đề đáng quan ngại mới quan trọng. BĐKH đã làm trầm trọng hơn và
tạo ra các rủi ro an ninh toàn cầu, khu vực và quốc gia bao gồm các áp lực di
cư, tái định cư và xung đột tranh giành các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang
ngày càng khan hiếm.
Chính trong bối cảnh
đó, Việt Nam đã chọn phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững, có sự liên kết
chặt chẽ với cộng đồng quốc tế.
Với vai trò là thành
viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021
cùng với cam kết trên cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam mong muốn đóng
góp nhiều hơn nữa vào các nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo
hòa bình, an ninh, phục hồi và xây dựng lại tốt hơn sau đại dịch COVID-19, giải
quyết vấn đề ô nhiễm đại dương và rác thải nhựa đại dương vì một nền kinh tế biển
bền vững và có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu (BĐKH). Đồng thời tiếp
tục khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực, đối tác tin cậy và có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế.
Tháng 12 tới đây, Việt Nam đăng cai chủ trì tổ chức hội nghị quốc tế về kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với BĐKH nhằm thể hiện vai trò của mình trong phát triển bền vững kinh tế đại dương, thích ứng với BĐKH; chung tay giải quyết các vấn đề thách thức chung toàn cầu./.
出口——经济复苏的重要动力
07:42 |2021年第三季度,越南GDP增速预计同比下降6.17%,是2000年以来最高降幅。如果未来一两个季度情况继续恶化,经济陷入衰退的风险很大。因此,经济复苏是当今最紧迫的任务。经济面临衰退的风险可能是比疫情更大、更严重的问题。
经济复苏,必须有市场。由于总需求下降,国内市场将非常小。总需求下降是因为数十万企业破产或退出市场或不得不缩减生产经营规模;数百万人失业或收入减少;
“积谷防饥”心理使人们节俭;曾经高达1800万人次的外国游客数量正在归零。要凭借国内市场恢复经济,肯定会出台一项庞大的刺激计划。
更为简单的是开拓世界市场。由于许多国家的经济,尤其是如美国、欧盟、中国等重要伙伴正在快速复苏和高速增长,为出口敞开大门。此外,越南签署的CPTPP、EVFTA、RCEP等系列自由贸易协定也为这项活动创造了非常有利的条件。因此,出口是越南经济复苏的重要动力。
为促进出口,重要的是为从事出口货物、提供进出口服务、物流服务的企业创造一切条件,迅速恢复生产经营。
首先,要保证交通畅通无阻。坚决不让进出口业务的货物、物资设备和人力资源供应链中断。立即克服了“封运禁贸”、“村俗高于国法”——每地方制定自己的法规的局面。此外,合理调整防疫措施,实现既防疫又保生产经营的双重目标。在任何状况之下,还是要保证出口货物的生产不中断。以色列如此富裕的原因之一是:以色列人从不违反国际合同。
尽管战争、炸弹坠落、子弹爆炸,他们仍决心履行合同承诺并毫不拖延交货时间。即使因为不可抗力的原因造成短时间交货延迟得到客户的理解,而市场仍不接受。年终销售机会过去了,我们是否有充分的生产和交货能力都毫无意义。
此外,应调整地方领导责任制,使他们平衡承担疫情防控和经济复苏的责任。过分强调防疫责任,给很多地方领导带来很大压力,容易导致不顾经济崩溃风险,出台极端疫情防控措施。
推动并为南部各省份有合同但从业人员不足的企业向北方有足够员工的企业转移合同创造条件,与企业携手同行,吸引工人复工;合理提高从事出口员工疫苗接种的优先顺序也是一项紧迫的措施。
最后,面临的经济困难是巨大的。但是,如果采取正确的应对措施,我们完全可以渡过难关。促进出口就是这样一种政策回应。
Xuất khẩu - động lực quan trọng để phục hồi kinh tế
06:40 |Quý III năm 2021, tăng
trưởng GDP ước tính giảm 6,17% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất từ
năm 2000 đến nay. Nếu một, hai quý tới tình hình tiếp tục diễn biến xấu như vậy,
thì rủi ro nền kinh tế sẽ bị rơi vào suy thoái là rất lớn. Chính vì vậy, phục hồi
kinh tế là nhiệm vụ cấp bách nhất hiện nay. Kinh tế có nguy cơ bị suy thoái có
thể sẽ là vấn đề to lớn và nghiêm trọng hơn dịch bệnh rất nhiều.
Để phục hồi kinh tế thì
phải có thị trường. Thị trường trong nước sẽ khá nhỏ hẹp vì tổng cầu đang giảm.
Tổng cầu giảm là vì hàng trăm nghìn doanh nghiệp đã bị phá sản hoặc rời bỏ thị
trường hay phải cắt giảm quy mô sản xuất - kinh doanh; hàng triệu người bị thất
nghiệp hoặc bị giảm sút thu nhập; tâm lý “tích cốc, phòng cơ” làm cho người dân
cắt giảm chi tiêu; lượng khách quốc tế du lịch từng lên đến 18 triệu lượt người
đang trở về với số mo. Muốn phục hồi kinh tế dựa vào thị trường trong nước, chắc
chắn sẽ phải có một chương trình kích cầu rất lớn.
Điều dễ dàng hơn là
khai thác thị trường thế giới. Do kinh tế của nhiều nước, đặc biệt là các nước
đối tác quan trọng của chúng ta như Mỹ, EU, Trung Quốc… đang phục hồi nhanh
chóng và tăng trưởng cao, nên cơ hội mở ra cho xuất khẩu là rất lớn. Hơn thế nữa,
hàng loạt các hiệp định tự do thương mại mà chúng ta đã ký kết như CPTPP,
EVFTA, RCEP… cũng đang tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động này. Chính vì
vậy, xuất khẩu là động lực hết sức quan trọng để phục hồi kinh tế của chúng ta.
Để đẩy mạnh xuất khẩu,
quan trọng là phải tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu,
cung cấp dịch vụ xuất nhập khẩu, dịch vụ logistics nhanh chóng phục hồi sản xuất,
kinh doanh.
Trước hết, cần bảo đảm
giao thông thông suốt và liên tục. Kiên quyết không để các chuỗi cung ứng hàng
hóa, vật tư- thiết bị và nhân lực phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu bị đứt gãy.
Khắc phục ngay tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, “phép vua thua lệ làng” - mỗi địa
phương tự đề ra một loại luật lệ. Ngoài ra, điều chỉnh các biện pháp phòng chống
dịch một cách hợp lý để thực hiện mục tiêu kép - vừa phòng chống dịch, vừa bảo
đảm sản xuất, kinh doanh. Trong bất cứ trường hợp nào vẫn phải bảo đảm việc sản
xuất hàng xuất khẩu không bị đứt gãy. Một trong những nguyên nhân mà đất nước
Israel trở nên giàu có chính là: người Israel không bao giờ vi phạm hợp đồng quốc
tế.
Cho dù chiến tranh, bom
rơi, đạn nổ trên đầu, thì họ vẫn kiên quyết thực hiện đầy đủ cam kết hợp đồng của
mình và giao hàng không chậm trễ dù chỉ một ngày. Cho dù chậm giao hàng trong một
thời gian ngắn vì lý do bất khả kháng có được khách hàng thông cảm, thì thị trường
vẫn không chấp nhận điều này. Khi cơ hội bán hàng cuối năm trôi qua, thì chúng
ta có sản xuất và giao hàng đầy đủ cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Bên cạnh đó, điều chỉnh
chế độ trách nhiệm đối với lãnh đạo các địa phương để họ phải chịu trách nhiệm
cân bằng giữa việc phòng chống dịch, vừa bảo đảm việc phục hồi kinh tế. Việc
quá coi trọng áp đặt trách nhiệm trong phòng chống dịch gây sức ép rất lớn cho
không ít lãnh đạo địa phương dễ dẫn tới ban hành những biện pháp cực đoan trong
phòng, chống dịch bất chấp nguy cơ đổ vỡ của kinh tế.
Thúc đẩy và tạo điều kiện
để các doanh nghiệp có hợp đồng nhưng chưa đủ nhân công ở phía nam chuyển giao
bớt hợp đồng cho các doanh nghiệp đang có đủ nhân công ở phía bắc; tạo điều kiện
và chung tay với các doanh nghiệp trong lôi kéo người lao động trở lại làm việc;
nâng cấp thứ tự ưu tiên một cách hợp lý trong tiêm chủng cho đội ngũ lao động
làm hàng xuất khẩu cũng là những biện pháp cấp thiết.
Cuối cùng, những khó
khăn về kinh tế đang phải đối mặt là rất to lớn. Tuy nhiên, với những phản ứng
chính sách phù hợp, chắc chắn chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua. Đẩy mạnh xuất
khẩu là một trong những phản ứng chính sách như vậy.
TS Nguyễn Sĩ Dũng
东盟促进优先事项并发挥中心作用和价值
05:59 |东盟国家领导人10月26日开始出席一系列东盟峰会和东盟与各伙伴的领导人会议,东盟加三峰会、东亚峰会。新冠肺炎疫情和大国之间的激烈竞争给东盟带来了许多挑战。但这也是东盟促进优先事项和发挥在本地区的中心作用和价值的机会。
上述系列会议继续将东盟置于本地区最重要议程的中心,讨论从缅甸、朝鲜半岛、东海局势,到应对新冠肺炎疫情危机、经济复苏和可持续发展计划等各项议题。
本次会议是在非常特殊的时刻举行的。东盟面临着许多挑战,可以说极其困难,由于新冠病毒新变种导致的疫情在本地区爆发和传播,严重影响了各国经济社会发展。疫苗的足量生产和均衡分配也是本地区面临的最大挑战,因为到目前为止,东盟仍然没有足够的疫苗供应,治疗新冠肺炎的药物也短缺。
关于经济复苏,东盟现已同意为企业家和民众建立旅游走廊。但在各国逐步放宽人员往来的情况下,这对控制疫情也是一大挑战。此外还有自然灾害、地区安全,特别是大国竞争等挑战。
在此背景下,在上述会议上,东盟继续团结一心,发挥内力,坚持东盟运作模式,特别是坚持《东盟宪章》提出的共识原则和其他原则。与此同时,团结一心共同维护东盟的中心地位,发挥东盟主导机制的作用,同时确保在与伙伴关系中发出共同声音和平衡接触。
本次会议除了着力解决地区内部挑战外,也是东盟加强和扩大与中国、日本、韩国、印度、美国、澳大利亚和俄罗斯等地区外伙伴关系的契机;同时巩固东盟在其倡导的合作机制中的中心地位。
过去,许多伙伴国提出希望加强与东盟的合作,东盟一直与伙伴国保持平衡关系,鼓励伙伴国支持东盟控制和应对新冠肺炎疫情,合作解决共同挑战。其中包括今年6月与中国、今年7月与俄罗斯和7月与美国举行的特别外长会议。东盟还就今年12月在英国伦敦举行的东盟-七国集团外长会议达成共识。值得一提的是,东盟已接纳英国为东盟第11个对话伙伴,并正考虑中国、澳大利亚的提议,将双边关系提升为全面战略伙伴关系。
面对缅甸政治局势,东盟采取了一些迅速、及时的行动,特别是今年4月通过和落实缅甸五点共识。此外,东海继续是东盟国家和伙伴国关注的问题。总体而言,东盟始终坚持遵守包括1982年《联合国海洋法公约》在内的国际法,强调维护地区和平、稳定和东海航行与飞越安全和自由的重要性;全面有效落实《东海各方行为宣言》,尽快达成务实、有效和符合国际法的《东海行为准则》(COC)等观点。
这些演变表明东盟在区域架构中的作用更加明确。各国在与东盟合作中都有自己的关注和优先事项,包括潜在的冲突和不同的观点。本次东盟峰会是东盟展示与各国在关切问题上共担责任的机会,使其成为地区共同发展的一部分,推动实施优先事项,发挥东盟在国际和地区的中心作用。
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...