Việt Nam hướng đến kinh tế biển xanh
Việt Nam đăng cai chủ
trì tổ chức hội nghị quốc tế về kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với
BĐKH dự kiến tháng 12 năm 2021 thực sự cần thiết, góp phần quan trọng nâng cao
vai trò của Việt Nam phát triển bền vững kinh tế đại dương, thích ứng với BĐKH;
chung tay giải quyết các vấn đề thách thức chung toàn cầu.
Kinh tế đại dương bền vững
hay kinh tế canh (Blue Economy), là một khái niệm mới nổi dùng để chỉ sự phát
triển của các hoạt động kinh tế biển một cách tổng hợp và bền vững. Kinh tế biển
bao gồm các lĩnh vực kinh tế khác nhau: năng lượng tái tạo, du lịch biển và ven
biển, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, vận tải biển, quản lý chất thải và bảo tồn
biển.
Cách tiếp cận kinh tế
biển bền vững thường vượt ra ngoài việc coi đại dương là nơi cung cấp các nguồn
lực kinh tế duy nhất, mà còn kêu gọi bảo vệ và phục hồi các nguồn tài nguyên
thiên nhiên trong khi tìm cách cải thiện phúc lợi của con người và công bằng xã
hội. Cách tiếp cận như vậy phải lường trước và kết hợp đầy đủ các tác động của
biến đổi khí hậu và đảm bảo rằng các hoạt động ứng phó với COVID-19 (kể cả các
gói cứu trợ kinh tế) sẽ đóng góp vào việc phục hồi tốt hơn, vì một nền kinh tế
biển công bằng, bền vững và có khả năng chống chịu hơn.
Đối với các quốc gia
đang phát triển và dễ bị tổn thương, việc xây dựng các chiến lược thích ứng đầy
đủ và nâng cao khả năng chống chịu cho các cộng đồng dễ bị tổn thương là điều
vô cùng quan trọng do những cộng đồng này phải chịu tác động của BĐKH và khủng
hoảng COVID-19; đồng thời họ cũng bị tổn thương do thiếu nguồn tài chính, sinh
kế thay thế hạn chế, thiếu mạng lưới an sinh xã hội và an ninh lương thực. Nếu
không tiến hành các biện pháp thích ứng, theo các số liệu dự báo, mực nước biển
dâng sẽ làm tăng rủi ro bão, lũ và ngập úng làm hàng triệu người phải di dời,
gây thiệt hại đáng kể đến mạng sống, tài sản, cơ sở hạ tầng, sinh kế và môi trường
sống, đe dọa an ninh lương thực do đứt gãy chuỗi cung ứng thực phẩm và các hệ
thống phân phối.
Tiếp cận nguồn tài
chính là điều vô cùng quan trọng để phát triển tốt hơn sau khủng hoảng COVID-19
và giải quyết các vấn đề BĐKH nhằm đảm bảo một nền kinh tế biển có khả năng chống
chịu khí hậu và đạt được các mục tiêu SDG 13 và 14. Các quốc gia đã phát triển
cam kết huy động nguồn tài chính khí hậu 100 tỷ USD mỗi năm tới năm 2020 cho
các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, các hoạt động đầu tư trên thực tế vẫn
chưa đạt được mức này. Kinh tế biển thường bị sao lãng trong các biện pháp kích
cầu COVID-19 cho tới nay, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch đang có các tác động
nghiêm trọng đối với người lao động, các cộng đồng và các lĩnh vực phụ thuộc
vào Kinh tế biển. Trong thập kỷ này, các quốc gia sẽ cần tìm hiểu các cơ hội và
nguồn tài chính khí hậu khác nhau, ví dụ huy động nguồn tài chính đòn bẩy từ
khu vực tư nhân, nghiên cứu trái phiếu xanh và triển khai các chương trình bảo
hiểm rủi ro khí hậu.
Theo các số liệu từ Tổng
cục Thống kê và Ngân hàng thế giới, Việt Nam có hơn 70 triệu người (khoảng 72%
tổng dân số) sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển của cả nước, đồng bằng sông Cửu
Long và sông Hồng. 83% sản lượng gạo trong nước cũng tập trung ở các tỉnh đồng
bằng và ven biển thấp. Đây cũng là khu vực phát triển năng động của cả nước.
Tuy nhiên, hiện nhiều
thành phố và đồng bằng ven biển đang bị sụt lún ở tốc độ đôi khi còn cao hơn
nhiều tốc độ mực nước biển dâng do các nguyên nhân tự nhiên và con người, và cơ
sở hạ tầng đô thị đang gặp áp lực lớn. Các rủi ro an ninh liên quan đến khí hậu
cũng là một vấn đề đáng quan ngại mới quan trọng. BĐKH đã làm trầm trọng hơn và
tạo ra các rủi ro an ninh toàn cầu, khu vực và quốc gia bao gồm các áp lực di
cư, tái định cư và xung đột tranh giành các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang
ngày càng khan hiếm.
Chính trong bối cảnh
đó, Việt Nam đã chọn phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững, có sự liên kết
chặt chẽ với cộng đồng quốc tế.
Với vai trò là thành
viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021
cùng với cam kết trên cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam mong muốn đóng
góp nhiều hơn nữa vào các nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc đảm bảo
hòa bình, an ninh, phục hồi và xây dựng lại tốt hơn sau đại dịch COVID-19, giải
quyết vấn đề ô nhiễm đại dương và rác thải nhựa đại dương vì một nền kinh tế biển
bền vững và có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu (BĐKH). Đồng thời tiếp
tục khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực, đối tác tin cậy và có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế.
Tháng 12 tới đây, Việt Nam đăng cai chủ trì tổ chức hội nghị quốc tế về kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với BĐKH nhằm thể hiện vai trò của mình trong phát triển bền vững kinh tế đại dương, thích ứng với BĐKH; chung tay giải quyết các vấn đề thách thức chung toàn cầu./.

- Việt Nam đóng góp tích cực tại Uỷ ban Luật quốc tế của Liên hợp quốc
- 为共同的未来保护海洋
- Bảo vệ đại dương vì tương lai chung
- 越南承诺促进蓝海可持续发展
- Việt Nam khẳng định cam kết phát triển đại dương xanh, bền vững
- 第八次海洋对话:越南承诺遵守和促进《联合国海洋法公约》
- Đối thoại biển lần thứ 8: Thúc đẩy hợp tác biển tại Đông Nam Á
- 必须对“绿色宪章”持有正确的看法
- Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
- 应用1982年UNCLOS 促进越南成为海洋强国
- Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh
- 心系家乡海洋岛屿
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét