Home » hoptacdoingoai
Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2020
EVFTA và EVIPA – Những động lực và kỳ vọng mới
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp
định bảo hộ đầu tư Việt Nam -EU (EVIPA) được ký ngày 30-6-2019 và đã được nghị
viện châu Âu (EP) thông qua ngày 12-2-2020 với số phiếu áp đảo (EVFTA với 401
phiếu ủng hộ, 192 phiếu chống, 40 phiếu trắng, và EVIPA với 407 phiếu ủng hộ,
188 phiếu chống, 53 phiếu trắng). EVFTA sẽ có hiệu lực khi được Quốc hội Việt
Nam và EP phê chuẩn, trong khi hiệp định EVIPA cần được Quốc hội Việt Nam, EP
và Nghị viện các nước thành viên EU phê chuẩn. Quyết định của EP đã “bật đèn
xanh” cho việc thực thi hiệp định EVFTA và tạo tiền đề để các Nghị viện quốc
gia thành viên EU xem xét, phê chuẩn EVIPA thời gian tới.
Là cột mốc mới quan trọng trong 30 năm thiết lập quan hệ
ngoại giao (1990 – 2020), việc thông qua EVFTA và EVIPA với tỷ lệ ủng hộ cao tại
Nghị viện châu Âu, nơi tâp hợp 700 nghị sĩ từ 27 nước, đại diện cho nhiều đảng
phái, khuynh hướng chính trị và lợi ích kinh tế đa dạng khác nhau, cho thấy các
nghị sĩ và các quốc gia thành viên EU thực sự coi trọng, đánh giá cao vai trò,
vị thế của Việt Nam và quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam - EU.
EVFTA và EVIPA có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết
cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay, chứa đựng nhiều cơ hội và kỳ vọng mở ra
một triển vọng mới cho quan hệ hợp tác hai bên Việt Nam và EU phát triển ngày
càng sâu rộng, toàn diện, bình đẳng, cùng có lợi và hiệu quả hơn; đồng thời,
đóng góp vào thúc đẩy xu thế chung về liên kết kinh tế quốc tế và phát triển bền
vững; khẳng định vị thế Việt Nam và chính sách của EU tiếp tục tăng cường gắn kết
với châu Á-Thái Bình Dương nói chung và ASEAN nói riêng.
EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba và là một trong
hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại hai chiều
đã tăng hơn 12 lần, từ mức 4,1 tỷ USD năm 2000 lên hơn 50,4 tỷ USD năm 2017;
trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng13,6 lần (từ 2,8 tỷ USD lên hơn 38,3
tỷ USD) và nhập khẩu vào Việt Nam từ EU tăng hơn 9 lần (1,3 tỷ USD lên 12,1 tỷ
USD). Các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của ta sang EU là giày dép, dệt may, cà
phê, đồ gỗ, hải sản.
EU cũng là nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Tính đến năm
2017, đã có 24 trong số 28 nước EU đầu tư vào Việt Nam với khoảng 2000 dự án
còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 21,5 tỷ USD. Các nhà đầu tư EU đã
có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, tập trung nhiều
nhất vào công nghiệp, xây dựng và một số ngành dịch vụ.
EVFTA và EVIPA sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp EU tiếp
cận thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam, qua đó tiếp cận sâu hơn thị trường
ASEAN và khu vực; GDP của EU dự kiến sẽ tăng thêm 30 tỷ USD và xuất khẩu của EU
vào Việt Nam sẽ tăng khoảng 15,28% vào năm 2020, tăng 33,06% vào năm 2025, tăng
36,7% vào năm 2030, tăng 29% vào năm 2035…
EVFTA và EVIPA mở ra cơ hội lớn cho DN Việt Nam thâm nhập
thị trường EU đầy tiềm năng với 508 triệu dân và quy mô khoảng 18 nghìn tỷ USD,
hiện là thị trường xuất khẩu và xuất siêu lớn thứ hai của Việt Nam. Ngay khi
EVFTA có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần 86% số dòng thuế từ
Việt Nam và nâng lên 99% dòng thuế sau 7 năm; trong khi Việt Nam xóa bỏ ngay
48,5% số dòng thuế cho hàng hóa EU trong năm đầu tiên và nâng lên 91,8% số dòng
thuế sau 7 năm.
Với cơ cấu kinh tế mang tính bổ sung, tương hỗ lẫn nhau
nên ít có cạnh tranh trực tiếp và các cam kết mở cửa thị trường trong EVFTA là
có chừng mực, với lộ trình đủ dài, vừa với sức vươn lên của các DN Việt Nam. Việc
thực hiện EVFTA và EVIPA dự kiến tạo áp lực cạnh tranh gay gắt chỉ ở một số
lĩnh vực như logistics, hóa chất, phương tiện vận tải, sắt thép, dược phẩm,
chăn nuôi và nông sản chế biến...trong khi tạo nhiều cơ hội và động lực mới cho
Việt Nam. Theo đó, cùng với những lợi ích gián tiếp khác, việc thực hiện EVFTA
và EVIPA dự kiến sẽ giúp Việt Nam tăng 20% xuất khẩu sang EU vào năm 2020, tăng
gần 43% vào năm 2025 (trong đó, xuất khẩu gạo tăng 65%, dệt tăng 67%, may mặc
tăng 81% và da giày tăng tới 99%; còn đường tăng 8% và lâm sản, thịt gia súc,
gia cầm và đồ uống, thuốc lá cũng tăng từ 3-4%...) và tăng gần 45% vào năm
2030; Đồng thời, tăng 4-6% GDP vào năm 2025 và tiếp theo. Việc 85,6% số dòng
thuế sẽ được EU ngay lập tức dỡ bỏ sau khi EVFTA có hiệu lực giúp tăng năng lực
cạnh tranh cho 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. Việt
Nam xóa bỏ 48,5%, tương đương với 64,5% kim ngạch nhập khẩu vào Việt Nam, cũng
sẽ giúp giảm chi phí đầu vào cho các ngành sản xuất, giảm giá hàng hóa, dịch vụ…
Theo dự báo của EuroCham, EU sẽ đầu tư vào nông nghiệp
công nghệ cao, là lĩnh vực tiềm năng được nhiều doanh nghiệp EU chờ đón, trong
đó, ngoài việc tập trung nguồn vốn còn đẩy mạnh chuyển giao giải pháp công nghệ
cao trong nông nghiệp, sản xuất chế biến nông sản, thực phẩm. Với quy mô và tiềm
năng về vốn, công nghệ của EU, Việt Nam đang đứng trước cơ hội trở thành địa
bàn trung chuyển, cửa ngõ kết nối cho hoạt động thương mại và đầu tư của EU
trong khu vực châu Á. Lĩnh vực đầu tư mà EVFTA hướng tới không chỉ nhằm vào sản
xuất, xuất nhập khẩu, mà còn cả những lĩnh vực dịch vụ đang "sôi sục"
trong trào lưu cách mạng công nghệ 4.0, như viễn thông và công nghệ thông tin,
kiến trúc và tư vấn kỹ thuật, dịch vụ môi trường. Khi phát triển các dịch vụ
này đạt trình độ quốc tế, Việt Nam chẳng những bớt phần nhập khẩu, mà còn có thể
xuất khẩu nhiều dịch vụ chất lượng cao, không chỉ tăng đột phá kim ngạch xuất
khẩu về giá trị mà còn cả về hiệu quả, cán cân thương mại tích cực.
Cam kết đầu tư trong EVFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội cho
doanh nghiệp tham gia đầu tư vào thị trường các bên. Theo đó, hai bên sẽ đối xử
bình đẳng, bảo hộ an toàn và đầy đủ các khoản đầu tư và nhà đầu tư của nhau,
như: (1) Đối xử với các nhà đầu tư của nước thành viên bình đẳng như nhà đầu tư
trong nước hoặc ngoài khối về lĩnh vực đầu tư và tiếp cận thị trường;
(2) Không áp dụng các chính sách hạn chế như yêu cầu hàm
lượng nội địa, sản xuất nội địa, bắt buộc chuyển giao công nghệ, hạn chế nhập
khẩu và định mức xuất khẩu;
(3) Bảo đảm hoàn trả và bồi thường cho nhà đầu tư nếu xảy
ra thiệt hại trong trường hợp xung đột vũ trang, bất ổn xã hội, trường hợp khẩn
cấp hoặc thiệt hại do chính sách nhà nước (trưng dụng gián tiếp);
(4) Không trưng dụng, quốc hữu hóa các khoản đầu tư, trừ
trường hợp dùng vào mục đích công, có bồi thường đúng pháp luật;
(5) Công nhận và tạo điều kiện thuận lợi cho các hình thức
chuyển nhượng tài sản như góp vốn, trả lãi, giao dịch mua bán và bồi thường;
(6) Nếu Hiệp định EVFTA bị hủy bỏ, nước thành viên phải
tiếp tục áp dụng các điều khoản về đầu tư thêm 15 năm;
(7) Các bên còn thống nhất cơ chế giải quyết tranh chấp
chặt chẽ nhưng thân thiện để các khúc mắc, nếu có, sẽ được xem xét, khách quan,
thấu đáo và phán quyết cuối cùng được tuân thủ.
Thực tế đã khẳng định FDI của EU là một trong những nguồn
lực mới tạo sức đẩy "cỗ đại xa đổi mới" tăng tốc trên xa lộ hội nhập,
bằng: (1) Mở ra kênh huy động vốn đầu tư quốc tế; (2) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
(3) Thúc đẩy chuyển giao công nghệ; (4) Bổ sung hàng cho thị trường nội địa;
(5) Mở mang xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế; và (6) Tạo ra quá trình chuyển
đổi từ một quốc gia với lực lượng lao động tay nghề thấp sang tay nghề cao.
EVFTA chính là công cụ tạo xung lực để Việt Nam bước tiếp trong tiến trình nói
trên.
Trên thực tế, Dệt may, một trong những ngành công nghiệp
lớn nhất Việt Nam với hơn hai triệu nhân công sẽ hưởng lợi lớn nhờ sau khi ký kết
FTA, mức thuế quan hiện nay 12% EU áp dung đối với hàng dệt may xuất khẩu của
Việt Nam sẽ giảm xuống còn 0%. Cụ thể, điều này sẽ có lợi đối với 5 sản phẩm dẫn
đầu xuất khẩu của Việt Nam (bộ vest nữ - 285 triệu, bộ vest nam - 233 triệu
USD, áo khoác nam - 211 triệu, áo khoác nữ - 207 triệu và áo len - 166 triệu).
Dựa trên số liệu năm 2009, việc cắt giảm thuế quan của EU sẽ giúp tăng xuất khẩu
của 5 sản phẩm xuất khẩu dẫn đầu nói trên, trung bình hơn 20%.
Việt Nam là một trong 10 nhà xuất khẩu da giầy dép hàng đầu
thế giới, với hơn 500 doanh nghiệp, một triệu nhân công và chiếm 10% kim ngạch
xuất khẩu hàng năm. xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào giầy da chất
lượng cao (48%, 2,3 tỷ USD năm 2008) và giầy thể thao cho các thương hiệu giầy
của Mỹ và EU; gần đây một số nhà sản xuất Việt Nam đã bắt đầu tập trung vào nhu
cầu nội địa với mức thuế quân bình quân gia quyền EU áp dụng đối với giầy dép
nhập khẩu từ Việt Nam là 12,4%: Thuế nhập khẩu giầy da gồm cả thuế chống bán
phá giá là 17%. Việc ký kết FTA trở nên đặt biệt quan trọng đối với xuất khẩu
giầy dép Việt Nam: trong mô phỏng SMART (Ngân hàng thế giới), xuất khẩu các loại
giầy dép khác nhau sẽ tăng từ 7 đến 21%; cần cộng thêm 14-16% do hết hạn áp dụng
thuế chống bán phá giá.
Hiệp định EVFTA còn đề cập tới những khía cạnh khác như:
Cam kết về đối xử quốc gia trong lĩnh vực đầu tư; giải quyết tranh chấp giữa
nhà đầu tư và Nhà nước; Cạnh tranh, phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng
năng lực, pháp lý, thể chế; tạo ra một môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi và
bình đẳng cho hoạt động của các DN hai bên...nhằm tăng cường hợp tác, thúc đẩy
sự phát triển của thương mại và đầu tư giữa hai bên.
EVFTA còn có những vấn đề Việt Nam chưa từng cam kết như:
Đầu tư (cả trong sản xuất và dịch vụ), chính sách đối với DN Nhà nước (DNNN),
mua sắm công, lao động, môi trường…
EVFTA khi được thực thi, nhất là việc dỡ bỏ thuế quan,
xúc tiến đầu tư, thúc đẩy công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, cải thiện quy tắc
xuất xứ và chứng nhận xuất xứ; cải thiện môi trường tạo thuận lợi thương mại -
hỗ trợ kỹ thuật tăng cường nhận thức và áp dụng những tiêu chuẩn của thị trường
EU…sẽ mang lại nhiều cơ hội để Việt Nam mở rộng xuất khẩu, thu hút đầu tư và tham
gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu…
EVFTA và EVIPA còn giúp Việt Nam đẩy mạnh đa dạng hóa thị
trường và đối tác, tạo chỗ đứng vững chắc hơn tại thị trường EU nói riêng và
toàn bộ châu Âu nói chung, cùng với Hiệp định tự do đã ký với Liên minh thuế
quan nga, Belarus và Kazakhstan …. Đồng thời, góp phần thúc đẩy tiếp nhận hàng
hóa chất lượng cao và thiết lập chuỗi sản xuất gắn với dòng vốn đầu tư công nghệ
cao từ EU, cả trong công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế số.
Sự hợp tác hiệu quả giữa hai bên trong thực thi các cam kết
của EVFTA và EVIPA còn góp phần thúc đẩy Việt Nam tiếp tục cải cách hoàn thiện
thể chế, nâng cao tiêu chuẩn lao động và đời sống của nhân dân, đẩy mạnh tái cơ
cấu kinh tế theo chiều sâu và tăng trưởng bền vững…
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét