Home » hoptacdoingoai
Thứ Ba, 11 tháng 8, 2020
Công tác đối ngoại góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chiến lược của đất nước và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định (phần 1)
TCCS - Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ “kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định” là một trong những nhiệm
vụ xuyên suốt của cả hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Ngành
đối ngoại đã quán triệt sâu sắc, đồng thời tích cực, chủ động thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ trên.
Hơn một thập niên qua, tình hình thế giới
đã có những biến động sâu sắc. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại đã
tạo ra nhiều xáo trộn trong quan hệ quốc tế, làm gia tăng căng thẳng, xung đột ở
nhiều khu vực. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa đơn phương gia tăng, sự
quay trở lại của chính trị cường quyền đang thách thức vai trò của các thể chế
quốc tế và khu vực. Các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, đơn phương diễn giải
luật pháp quốc tế trái với chuẩn mực đã được thừa nhận diễn ra ngày càng phổ biến.
Tình hình đó đã tạo ra các thách thức mới
đối với công tác bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ cũng như tác động
không thuận đối với hòa bình và ổn định của toàn khu vực. Trước sau như một, Đảng
và Nhà nước ta kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
lợi hợp pháp của quốc gia bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc
tế. Đồng thời, chúng ta hết sức coi trọng, làm hết sức mình để thúc đẩy quan hệ
hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng và các nước đối tác khác vì lợi ích của
các nước liên quan và vì hòa bình, an ninh, hợp tác ở khu vực và trên thế giới.
Công
tác đối ngoại góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Biên giới trên bộ vừa là “phên dậu” bảo
vệ an ninh quốc gia, vừa là nhân tố quan trọng để bảo đảm quan hệ hữu nghị, hợp
tác với các nước láng giềng. Trong thời gian qua, công tác phân giới trên bộ tiếp
tục có những thành tựu nổi bật. Nối tiếp thành quả phân định biên giới với
Trung Quốc và Lào, ngày 5-10-2019, Việt Nam ký kết hai văn kiện pháp lý với
Cam-pu-chia ghi nhận hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc cho khoảng 84% tổng
chiều dài biên giới hai nước. Đây là kết quả của nỗ lực bền bỉ, không mệt mỏi của
hai nước trong nhiều thập niên qua nhằm giải quyết thỏa đáng, công bằng những tồn
tại lịch sử phức tạp, hướng đến một đường biên giới hòa bình, ổn định lâu dài,
làm cơ sở để hai nước phát triển quan hệ bền vững.
Công tác quản lý biên giới tiếp tục được
chú trọng để duy trì trật tự trị an ở biên cương của Tổ quốc. Các lực lượng chức
năng của ta đã chủ động phối hợp với các nước láng giềng triển khai công tác quản
lý biên giới theo đúng các văn kiện pháp lý và thoả thuận liên quan. Với Trung
Quốc, chúng ta tiếp tục triển khai Chỉ thị số 1326/CT-TTg, ngày 27-7-2010, của
Thủ tướng Chính phủ, về việc triển khai các văn kiện biên giới trên đất liền Việt
Nam - Trung Quốc, lập các nhóm chuyên gia liên hợp khảo sát song phương xác định
hướng đi của đường biên giới, xử lý kịp thời các vi phạm Hiệp định về Quy chế
quản lý biên giới... Với Lào, chúng ta đã kịp thời phát hiện và xử lý thỏa đáng
các vụ, việc nảy sinh, thường xuyên thực hiện tuần tra đơn phương, song phương
nhằm quản lý, bảo vệ tốt mốc giới, triển khai Thỏa thuận cấp Chính phủ giải quyết
vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới. Với
Cam-pu-chia, tiếp tục quản lý biên giới theo Hiệp định về Quy chế biên giới năm
1983, Thông cáo báo chí năm 1995 và các thỏa thuận khác giữa hai nước, kịp thời
giải quyết các vấn đề mới.
Bên cạnh công tác quản lý, bảo vệ đường
biên giới trên bộ, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai nhiều biện pháp thúc
đẩy hợp tác phát triển kinh tế khu vực biên giới. Các công tác, như mở, nâng cấp
cửa khẩu, lối thông quan; thúc đẩy triển khai Hiệp định bảo vệ và khai thác tài
nguyên du lịch thác Bản Giốc và Hiệp định tàu thuyền đi lại tự do tại khu vực cửa
sông Bắc Luân; xây dựng các công trình hạ tầng giao thông khu vực biên giới nhằm
tạo thuận lợi cho giao thương, phát triển kinh tế, xã hội... đều được triển
khai mạnh và hiệu quả. Thực tế cho thấy phân giới, cắm mốc tạo điều kiện để
thúc đẩy hợp tác phát triển. Đồng thời, hợp tác phát triển tốt với các nước
láng giềng trên các khu vực biên giới không chỉ giúp nâng cao đời sống của cộng
đồng dân cư địa phương, mà còn là cơ sở để bảo vệ vững chắc và quản lý hiệu quả
các đường biên giới hiện có. Như vậy, về cơ bản, chúng ta đã xây dựng các đường
biên giới trên bộ vừa là đường biên giới hòa bình, hữu nghị, vừa là đường biên
giới phát triển.
Công tác đối ngoại cũng đã góp phần quan
trọng giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển. Công ước
của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), các nguyên tắc cơ bản của
quan hệ quốc tế theo Hiến chương Liên hợp quốc cũng như các nguyên tắc hoạt động
của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cùng chủ trương kiên quyết, kiên
trì đấu tranh trên các vấn đề liên quan đến Biển Đông tiếp tục là cơ sở thực tiễn
và pháp lý để chúng ta đấu tranh giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
tài phán trên biển. Sự hiện diện và thế đứng của chúng ta trên Biển Đông vẫn được
củng cố; các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông đã cơ bản được
giữ vững; tất cả các hoạt động xâm lấn, vi phạm của nước ngoài, dù phức tạp về
quy mô và cường độ hay kéo dài, cũng đều bị đẩy lùi; trong khi đó quan hệ hữu
nghị, hợp tác của ta với các nước láng giềng vẫn được bảo đảm.
Sự kiện nổi bật trong năm 2019 là tàu địa
chất Hải Dương 08 và nhóm tàu hộ tống của Trung Quốc đã vi phạm dài ngày vùng đặc
quyền kinh tế của ta. Chúng ta đã kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các hành động
vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo
sát sao của Đảng và Nhà nước, các cơ quan chức năng đã phối hợp nhịp nhàng, kết
hợp chặt chẽ giữa thực thi pháp luật trên thực địa và kiên trì giao thiệp đối
ngoại cùng sự ủng hộ của quốc tế khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền
tài phán; làm rõ thiện chí, mong muốn hòa bình, hữu nghị cùng những quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam và được sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế.
Đồng thời, chúng ta đã tích cực đối thoại,
đàm phán với các nước láng giềng để phân định các khu vực chồng lấn, qua đó tạo
lập ranh giới trên biển phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Với Trung Quốc,
ta đã triển khai nhiều cơ chế đàm phán ở các cấp khác nhau nhằm trao đổi, xử lý
các vấn đề liên quan đến phân định ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác trong lĩnh vực
ít nhạy cảm, đồng thời thảo luận cơ hội hợp tác phát triển phù hợp với luật
pháp quốc tế. Với In-đô-nê-xi-a, sau khi phân định thềm lục địa, Bộ Ngoại giao
chủ trì nhiều vòng đàm phán thúc đẩy việc phân định vùng đặc quyền kinh tế chồng
lấn giữa hai nước. Với Phi-líp-pin, chúng ta tiếp tục duy trì các cơ chế đối
thoại về các vấn đề trên biển ở cả cấp Thứ trưởng và cấp chuyên gia. Với
Ma-lai-xi-a, chúng ta tiếp tục duy trì đàm phán phân định các vùng biển và thềm
lục địa chồng lấn, hợp tác liên quan đến Báo cáo chung Việt Nam - Ma-lai-xi-a về
ranh giới ngoài thềm lục địa.
Việc đàm phán giữa ASEAN với Trung Quốc
để xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông hiệu lực, thực chất, phù hợp với luật
pháp quốc tế là một nhiệm vụ trọng tâm của đối ngoại thời gian qua. Việt Nam đã
thể hiện tinh thần là một thành viên ASEAN tích cực, chủ động và có trách nhiệm
cùng các nước ASEAN thúc đẩy tiến trình đàm phán để vừa đạt các mục tiêu chung
về tiến độ, vừa bảo đảm có tiến triển thực chất. Sau một năm, ASEAN và Trung Quốc
đã kết thúc “vòng rà soát thứ nhất”. Tại cuộc họp cấp Thứ trưởng Ngoại giao ở
Đà Lạt tháng 10-2019 vừa qua, các bên đã trao đổi thủ tục, cách thức và lộ
trình tiến hành “vòng rà soát thứ hai”.
Công tác thông tin, tuyên truyền và vận
động dư luận quốc tế tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh chính trị,
ngoại giao bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Các cơ quan truyền thông trong nước, mạng
lưới các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài và các kênh ngoại giao học
thuật đã rất tích cực trong việc đưa thông tin về tình hình trên biển, quan điểm
và chính sách của Việt Nam một cách chính xác, kịp thời tới Chính phủ, học giả
và dư luận khu vực, thế giới, qua đó nâng cao nhận thức của cộng đồng quốc tế
và sự ủng hộ đối với quan điểm và chủ trương của Việt Nam. (còn nữa)
PHẠM BÌNH
MINH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét