Khoảng cách giới còn tồn tại dai dẳng trong cộng đồng dân tộc thiểu số
Khoảng
cách giới trong các nhóm dân tộc thiểu số và giữa các nhóm dân tộc thiểu số với
dân tộc Kinh vẫn tồn tại dai dẳng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế-xã hội.
Trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em gái thường là những đối
tượng thiệt thòi hơn về khả năng tiếp cận các cơ hội, do các chuẩn mực xã hội
áp đặt vị trí thấp kém hơn cho họ.
Đây
là nhận định được đưa ra trong hai báo cáo “Số liệu về phụ nữ và nam giới các
dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019” và “Tóm tắt chính sách: Các vấn đề giới
trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam" do Cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng
giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) phối hợp với Viện Khoa học-Lao động và
Xã Hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), Vụ Dân tộc thiểu số (Ủy ban Dân tộc)
và Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam công bố hôm 4/8.
Thành tựu nổi bật về
bình đẳng giới
Nội
dung hai báo cáo được công bố gồm số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở
Việt Nam giai đoạn 2015-2019, các kết quả phân tích giới và các khuyến nghị
chính sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Các nguồn số liệu, thông tin trong hai báo cáo nói trên được tính toán từ kết
quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu
số ở Việt Nam do Tổng cục thống kê phối hợp với Ủy ban Dân tộc thực hiện năm
2015 và năm 2019.
Hai
báo cáo tập trung vào bảy chủ đề chính: Dân số; cơ sở hạ tầng và tài sản; cao động,
việc làm, thu nhập; giáo dục và đào tạo; văn hoá và xã hội; y tế và vệ sinh môi
trường; cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số.
Kết
quả phân tích số liệu tách biệt giới tính trong giai đoạn 2015-2019 trong báo
cáo cho thấy những thành tựu nổi bật về bình đẳng giới trong các vùng dân tộc
thiểu số và miền núi. Nhiều chỉ số về tài sản, tiếp cận các dịch vụ cơ bản đã cải
thiện đáng kể.
Cụ
thể, tỷ lệ hộ gia đình dân tộc thiểu số có kết nối Internet (wifi, cáp hoặc 3G)
tăng 9,4 lần, từ 6,5% năm 2015 lên 61,3% năm 2019. Có thể nói đây là bước phát
triển rất mạnh trong tiếp cận thông tin ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt chênh
lệch giữa hộ gia đình dân tộc thiểu số do nam và nữ làm chủ hộ rất ít, chỉ
1,5%.
Bên
cạnh đó, tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em dân tộc thiểu số tăng 15,2% trong
giai đoạn 2015-2019, trong đó trẻ em gái (tăng 15,9%) tăng cao hơn trẻ em trai
(tăng 14,5%). Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5%
trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ... Tỷ lệ tảo hôn của người dân tộc
thiểu số cũng đã giảm 4,7%.
Thu
nhập bình quân một nhân khẩu/tháng của người dân tộc thiểu số năm 2018 đã tăng
mạnh 1,8 lần so với năm 2014. Đặc biệt, thu nhập trung bình hàng tháng của hộ
gia đình dân tộc thiểu số có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam. Tỷ
lệ chủ hộ gia đình là nữ năm 2019 cũng đã tăng 3,5% so với năm 2015.
Bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, báo cáo cũng chỉ rõ một số vấn đề giới ảnh hưởng
đến phụ nữ và trẻ em gái vẫn tiếp tục tồn tại trong vùng dân tộc thiểu số và miền
núi. Tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống chung ở 53 dân tộc thiểu số tuy
có giảm, song mức giảm chưa đồng đều và cá biệt vẫn tiếp tục tăng trong một số
dân tộc.
Cần cách tiếp cận chính
sách đa chiều
Ông
Bùi Tôn Hiến, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho biết trong cộng
đồng người dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em gái thường là những đối tượng thiệt
thòi hơn về khả năng tiếp cận các cơ hội, các nguồn lực, do các chuẩn mực xã hội
áp đặt vị trí thấp kém hơn cho họ, giới hạn họ ở các hoạt động sinh con và sản
xuất hộ gia đình. Sự đan xen của nhiều hình thức phân biệt đối xử trên cơ sở giới
tính và dân tộc có ảnh hưởng phổ biến nhất.
Báo
cáo chỉ ra rằng lao động nữ dân tộc thiểu số làm các công việc không ổn định, dễ
bị tổn thương, lao động gia đình không hưởng lương nhiều hơn so với lao động
nam dân tộc thiểu số và lao động nữ người Kinh. Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số từ
10-49 tuổi sinh con tại cơ sở y tế đạt 86,4%, tuy nhiên vẫn thấp hơn đáng kể so
với phụ nữ Kinh là trên 99%.
Nhấn
mạnh cách tiếp cận đa chiều, toàn diện để xây dựng một chiến lược can thiệp tổng
thể và bền vững, bà Elisa Fernandez Saenz, Trưởng đại diện UN Women tại Việt
Nam cho rằng các vấn đề bình đẳng giới đan xen với các yếu tố dân tộc thường
khó giải quyết và đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện cũng như cần những cam kết đầu
tư nguồn lực tài chính trong những năm tới.
"UN
Women tin rằng báo cáo này sẽ góp phần lấp khoảng trống về số liệu thống kê giới
trong các dân tộc thiểu số Việt Nam và đóng góp vào tiến trình thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, phát triển bền vững ở các vùng dân tộc thiểu số," bà
Elisa Fernandez Saenz nói.
Báo
cáo vừa được công bố đã cung cấp một bức tranh rõ nét, đa chiều về thực trạng
bình đẳng giới ở các vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Báo cáo chỉ ra các vấn đề
giới nào đang được Chính phủ giải quyết tốt và vấn đề nào cần tiếp tục nỗ lực
can thiệp về cả chính sách và chương trình. Các số liệu thống kê giới này sẽ là
cơ sở cho quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát các chính sách phát triển
kinh tế-xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi hướng tới phát triển bền vững
vào năm 2030.
Ông
Lưu Xuân Thủy, Vụ trưởng Vụ dân tộc thiểu số tin rằng những phân tích về bình đẳng
giới ở vùng dân tộc thiểu số là thông tin nền tảng, hữu ích cho các bên liên
quan để thiết kế các chính sách và chương trình can thiệp để đảm bảo phụ nữ dân
tộc thiểu số không bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển bền vững của đất
nước.
Đại
diện đơn vị hỗ trợ tài chính, bà Lisa Doherty, Phó Ban phát triển, Đại sứ quán
Ireland tại Việt Nam cho biết Ireland tin rằng trao quyền và hỗ trợ phụ nữ đóng
vai trò then chốt và Ireland luôn ưu tiên bình đẳng giới trong mọi hoạt động.
Ưu tiên trọng tâm của Ireland tại Việt Nam là đảm bảo các chính sách và chương
trình của Chính phủ hỗ trợ đối với dân tộc thiểu số, trong đó chú trọng đặc biệt
đến các khía cạnh về giới và ưu tiên trao quyền cho phụ nữ./.
(Nguồn: TTXVN)

- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 越南增长前景乐观
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 为越南继续促进性别平等奠定坚实基础
- Nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
- 必须停止对越南宗教的颠倒黑白、混淆是非的论调
- Cần chấm dứt những luận điệu 'đổi trắng thay đen'
- 美国国务院年度人权报告的荒谬之处
- Điều phi lý trong báo cáo nhân quyền hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ
- 越南继续主动、积极为促进世界人权事业贡献力量
- Việt Nam tiếp tục chủ động đóng góp thúc đẩy nhân quyền trên thế giới
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét