Trọn tình, trọn nghĩa
Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Lào, Quân tình nguyện
và chuyên gia Việt Nam đã được nhân dân Lào hết lòng yêu thương, đùm bọc, chăm
sóc, giúp đỡ, luôn coi như người thân yêu, ruột thịt của mình.
Người mẹ, người anh,
người chị Lào
Đã có không ít câu chuyện về những người dân Lào tận tình chăm
sóc, cứu chữa các chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam trên đất nước Lào khi họ bị
thương, bị những cơn sốt rét rừng hành hạ, sẵn sàng mang cả thóc giống để giã gạo
nấu cháo, sẵn sàng truyền hơi ấm cho bộ đội tình nguyện như dành cho những người
thân của mình.
Riêng đối với ông Nguyễn Văn Nghiệp, Phó trưởng ban liên lạc toàn
quốc Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào, “ruột thịt” và “con em một
nhà” là những gì ông liên tục nói đến khi kể về những người dân Lào thủy chung,
son sắt mà ông có dịp tiếp xúc trong thời kỳ cùng chiến đấu khốc liệt, gian khổ
và tràn đầy niềm tin tất thắng của cả hai dân tộc.
“Cùng với nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng
Lào, sự tin yêu, đùm bọc, che chở của nhân dân các bộ tộc Lào đã giúp chúng tôi
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ”, ông Nghiệp khẳng định.
Ông Nghiệp còn nhớ vào năm 1950, trong một lần xuống thăm thủ trưởng
bị ốm đang nghỉ tại một nhà dân ở tỉnh Attapeu, ông đã gặp và trò chuyện với
người mẹ của gia đình đó. Thấy người chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam tuổi đời
còn trẻ, hiền lành, lại biết được ông ở quê nhà còn mẹ già và các em thơ, bà rất
thương, ngỏ ý muốn giới thiệu cho cô con gái xinh xắn tên là Simon.
Tuy nhiên, điều kiện lúc bấy giờ không cho phép ông nghĩ đến chuyện
tình cảm riêng tư. Dù đôi trẻ không nên duyên với nhau, song người mẹ Lào ấy vẫn
quý mến, nhận ông làm con nuôi. Bà đặt cho ông một cái tên Lào là Khamsy. “Chữ
“Kham” trong tiếng Lào có nghĩa là “vàng”, chữ “sy” liên quan tới tên của cô
con gái Simon.
Cái tên Khamsy mang ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự trân trọng, cho
thấy mẹ xem tôi như con ruột. Trong suốt thời gian hoạt động tại Attapeu, tôi
luôn được gia đình mẹ đùm bọc, che chở”, ông kể.
Đến giai đoạn 1954-1955, khi hoạt động tại tỉnh Champasak, ông
Nghiệp được phía bạn bố trí một đảng viên giúp đỡ. Người đảng viên tên Ki cùng
vợ tên là Chom lấy nhau nhiều năm nhưng chưa có con. Biết được hoàn cảnh gia
đình của ông, nên vợ chồng người đảng viên ấy lại càng thương và đối xử không
khác gì em ruột. Bất kể nắng mưa, ngày đêm, người chồng làm liên lạc, dẫn đường
đưa ông đi xuống cơ sở, trong khi người vợ lo việc cơm nước, tiếp tế lương thực.
“Anh ấy luôn đi trước thăm dò tình hình để bảo đảm an toàn. Những
lúc ở nhà, anh chị thay phiên nhau canh gác để tôi được nghỉ ngơi. Vì nhiệm vụ
nên phải đến sau này khi hòa bình lập lại, tôi mới có dịp về thăm nhưng tiếc rằng
cả hai anh chị đều đã qua đời”, ông bùi ngùi nhớ lại.
Nhắc tới sự đùm bọc, che chở của đôi vợ chồng người Lào, ông Nghiệp
nói rằng câu chuyện ấy lại gợi nhớ cho ông về một nữ đảng viên kiên trung, bất
khuất của cách mạng Lào tên Bua mà ông quen biết ở Champasak. Năm 1955, trong một
lần trên đường mang lương thực tiếp tế cho các chuyên gia Việt Nam, bà bị địch
bắt giam.
Dùng nhiều đòn tra khảo không được, chúng đưa bà cùng một tù nhân
khác đến trước hai cái huyệt đã được đào sẵn. Chúng bịt mắt, nổ súng dọa giết
nhưng không khuất phục được bà, cuối cùng địch đành đưa hai người trở lại nơi
giam giữ.
“Giam giữ thêm một thời gian, sử dụng nhiều thủ đoạn nhưng không
khiến chị Bua hé răng nửa lời và cũng vì không tìm được chứng cứ, chúng buộc phải
thả chị. Sau khi nghỉ ngơi lấy lại sức và nghe ngóng tình hình, chị Bua bắt
liên lạc lại với tổ chức và tích cực hoạt động, cống hiến cho cách mạng”, ông kể.
Quy luật tồn tại và
phát triển
Với tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Giúp bạn là tự giúp mình”, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, kề vai sát cánh cùng quân và dân các
bộ tộc Lào chiến đấu và chiến thắng vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân và đế quốc như Chủ tịch Kaysone Phomvihane từng khẳng định:
“Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền
độc lập của Lào”, “sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng
nên mối quan hệ đặc biệt”.
Những chiến công hiển hách và tấm lòng son sắt của Quân tình nguyện
và chuyên gia Việt Nam không thể diễn tả hết bằng lời và không bao giờ phai
nhòa trong tâm khảm nhân dân Lào. “Lúc nào Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào cũng
ghi nhớ sự hy sinh, đổ mồ hôi, xương máu cao cả của Quân tình nguyện và chuyên
gia Việt Nam giúp cách mạng Lào trước đây. Sự giúp đỡ này giống như sự giúp đỡ
anh em trong một gia đình, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là tự
giúp mình”, Đại sứ Lào tại Việt Nam Sengphet Houngboungnuang nêu rõ.
Nếu như nhân dân Việt Nam đã hy sinh xương máu cho cách mạng Lào
thì ở chiều ngược lại, nhân dân Lào cũng hy sinh tính mạng và của cải để giúp đỡ
cách mạng Việt Nam. Như Tổng Bí thư Lê Duẩn từng khẳng định: “Hai Đảng, hai dân
tộc chúng ta giúp đỡ lẫn nhau, nếu chỉ thấy sự giúp đỡ của một bên là không
đúng”. “Với tình cảm đặc biệt, Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đã ủng hộ hết sức
mình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Việt Nam mở “Đường Hồ Chí Minh” đi qua
lãnh thổ Lào để “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, giải phóng hoàn toàn miền Nam
Việt Nam, thống nhất đất nước”, Đại sứ Sengphet Houngboungnuang nhấn mạnh.
Sự hy sinh cao đẹp và vô cùng to lớn đó trở thành sức mạnh vô
song, nguồn động lực lớn lao, góp phần đưa cách mạng hai nước Việt Nam-Lào đi tới
thắng lợi vĩ đại vào năm 1975, kết thúc hàng chục năm chiến tranh, lập nên kỳ
tích chiến thắng thực dân và đế quốc xâm lược.
Kể từ khi hai nước tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã cùng phối hợp chặt chẽ, đưa cách mạng hai
nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội và tiến bước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, ghi thêm một kỳ tích mới của mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam-Lào.
Thực tiễn lịch sử ấy, theo Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá Hùng và Đại sứ Sengphet Houngboungnuang, đã khẳng định mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào là tài sản chung vô giá của hai dân tộc, là quy luật tồn tại và phát triển, là nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mỗi nước.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét