Home » vanhoa
Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015
Những giá trị trường tồn trong di sản nghệ thuật Nguyễn Du
Kỳ họp Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) của Đại
hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 37 tại Pa-ri ngày 25-10-2013 đã chọn Đại thi hào
Nguyễn Du của Việt Nam cùng một số danh nhân văn hóa đặc biệt xuất sắc khác được
thế giới vinh danh vào năm 2015. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng đã
có Công văn số 8467-CV/VPTW ngày 15-8-2014 về tổ chức Lễ kỷ niệm 250 năm Ngày
sinh Đại thi hào Nguyễn Du. Đây là sự kiện văn hóa tầm cỡ quốc gia, có tầm ảnh
hưởng quốc tế, có ý nghĩa chính trị, xã hội và văn hóa hết sức to lớn trong năm
2015 này.
Nguyễn Du vốn đã rất vĩ đại nhưng ông trở nên vĩ đại hơn khi
tiếng khóc thương vì số phận con người của ông được cả nhân loại nghe thấy. Kiệt
tác Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành máu thịt, hồn cốt của dân tộc, được
dịch ra hơn 20 thứ tiếng với hơn 35 bản dịch, khiến nhân loại phải đi sâu tìm
hiểu và chiêm ngưỡng. Bản dịch gần đây nhất của các nhà thơ Nga và Việt Nam ra
mắt bạn đọc đầu tháng 11 năm 2015, thêm một lần nữa khẳng định giá trị to lớn của
tác phẩm này. Nhà thơ Nga Va-xi-li Pô-pôp, người dịch Truyện Kiều sang tiếng
Nga đã nói: “Đọc xong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi đã trở thành một con người
khác”. Năng lượng tỏa ra từ Truyện Kiều thật vô tận, Nguyễn Du đã giúp chúng ta
nối dài vòng tay với nhân loại, gắn kết thế giới bằng chữ Tâm, chữ Tình. Truyện
Kiều giống như một viên ngọc nhiều màu sắc, càng mài càng sáng, mà mỗi một con
người và mỗi một dân tộc tự soi vào đó đều thấy số phận của mình…
Những giá trị nghệ thuật trong di sản văn học của Nguyễn Du,
đặc biệt là tác phẩm Đoạn trường tân thanh (mà chúng ta quen gọi là Truyện Kiều)
của ông là kết quả tài năng xuất chúng của cá nhân Đại thi hào, nhưng cũng là kết
tinh của tiến trình mấy nghìn năm phát triển của văn hóa, văn học dân tộc kết hợp
với những thành tựu của văn hóa khu vực Đông Á và Đông - Nam Á... Những giá trị
văn hóa kiệt xuất ấy đã thuộc về nhân dân, thuộc về dân tộc và thuộc về nhân loại,
sẽ trường tồn cùng thời gian. Có được điều đó bởi sự nghiệp văn học mà Nguyễn
Du để lại cho nhân loại với những tập thơ chữ Hán đầy chất suy tư, trắc ẩn, chứa
đựng những giá trị hiện thực lớn lao của cả một thời đại như Bắc hành tạp lục,
Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, bài Văn tế thập loại chúng sinh khóc
thương cho thân phận chúng sinh, cho những con người bất hạnh trong xã hội như
các em bé mồ côi không nơi nương tựa, các cô gái làm nghề kỹ nữ và bao kiếp người
đau khổ khác… Đặc biệt, Truyện Kiều bất hủ đã thể hiện một cách sinh động chủ
nghĩa nhân đạo cao cả, lòng thương yêu con người tha thiết, ca ngợi vẻ đẹp thể
chất và tâm hồn con người, khát vọng giải phóng họ khỏi sự áp bức, bất công,
vươn tới tự do, bình đẳng, hạnh phúc. Những tác phẩm ấy đã tôn vinh vẻ đẹp của
ngôn ngữ dân tộc, vẻ đẹp của thơ ca, của cốt cách và tâm hồn Việt Nam, khẳng định
vị trí số một của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc và từng bước chiếm lĩnh
văn đàn thế giới như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nhân loại.
Nguyễn Du từng đi sứ sang Trung Hoa, quê hương của Nho giáo
và trên con đường thiên lý đầy hiểm nguy, trắc trở nơi xứ người, ông đã thấu
triệt chân lý: ở nơi đâu thì những người dân lành, đặc biệt là người phụ nữ,
người tài hoa đều có số phận đau khổ giống nhau, họ đều phải chịu biết bao sự đọa
đày, bóc lột từ những kẻ có quyền lực trong một thể chế bộc lộ bản chất phi
nhân tính. Ông yêu thương, xót xa cho họ và viết lên những tác phẩm bất hủ có sức
mạnh tố cáo mãnh liệt và cũng chứa đựng những tình cảm yêu thương mãnh liệt.
Trong ông, những giáo điều mang tính sách vở đã dần tan vỡ trước thực tế khắc
nghiệt; đã lớn dậy một tình yêu thương nhân loại sâu thẳm. Tình yêu thương ấy
không chỉ dành cho những sinh linh đất Việt mà cho cả những con người bất hạnh
khốn cùng nơi Trung Hoa bạt ngàn gió bão, cho cả nhân loại chúng sinh. Nguyễn
Du là một nhà tư tưởng lớn và ở ông có nhiều nhận thức mới mẻ đi trước thời đại,
đặc biệt tập trung trong những giá trị nhân văn nổi bật của các tác phẩm, trong
vấn đề thay đổi nhận thức về thực trạng tư tưởng và thực trạng xã hội...
Đoạn trường tân thanh được viết bằng truyện thơ Nôm - một thể
loại văn học thuần túy dân tộc, có nguồn gốc sâu xa từ truyện thơ dân gian đã
được bác học hóa và là sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du, của văn học thế kỷ
XVIII - XIX. Thể thơ mà Nguyễn Du lựa chọn là lục bát, cũng là một thể thơ thuần
túy dân tộc, đã tồn tại trong văn học dân gian từ lâu đời, là hình thức thể hiện
của những bài ca dao, dân ca làm say lòng người trong các lễ hội dân gian trải
dài khắp mọi miền đất nước. Nhưng cũng chính thể thơ lục bát qua bàn tay thiên
tài của Đại thi hào đã được gọt rũa thành những viên châu ngọc ngời sáng vẻ đẹp
dân tộc. Lục bát, ca dao, dân ca sau Truyện Kiều đã trở thành một thứ lục bát,
ca dao, dân ca đẹp hơn, dân tộc hơn, vừa cao sang, vừa gần gũi. Với Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã trở thành người “phục hưng” những giá trị văn hóa, văn học mang
tính bản địa của dân tộc, và ông đã phát triển đến đỉnh cao những thành tựu
tinh thần này, khiến chúng trở thành bản sắc của văn học Việt Nam trong khu vực
và thế giới.
Số phận con người, cũng như sự phê phán những mặt trái, hạn
chế của chế độ phong kiến, đã trở thành vấn đề cấp bách, được đặt ra một cách đầy
gay gắt trong sáng tác của nhà thơ. Con người với thế giới tâm hồn phong phú, với
đời sống nội tâm sâu sắc, phức tạp và thân phận bi kịch của họ đã được Nguyễn
Du khám phá, phát hiện ở những tầng bậc sâu xa nhất. Ông trở thành một trong số
rất ít nghệ sĩ bậc thầy trên thế giới về nghệ thuật miêu tả tâm lý. Đại thi hào
đã cho chúng ta thấy nỗi đau tinh thần, sự giằng xé trong nội tâm con người còn
đớn đau, vật vã hơn nhiều so với nỗi đau thể xác. Đây là một trong những thành
tựu nghệ thuật hết sức to lớn của văn học dân tộc mà Nguyễn Du là tiêu biểu.
Lòng thương xót, sự cảm thông, việc đề cao nhân cách, tài
năng của người phụ nữ được Nguyễn Du kế thừa từ tinh thần nhân văn của văn hóa
dân tộc mà truyền thống tôn trọng người phụ nữ, tín ngưỡng thờ mẫu đề cao vai
trò người mẹ là những giá trị tiêu biểu. Những giá trị nhân văn trong các tác
phẩm của Nguyễn Du còn được Đại thi hào kế thừa từ tinh thần nhân đạo và dân chủ
của văn hóa, văn học dân gian, từ các giá trị nhân bản của Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo và từ tín ngưỡng, phong tục, tập quán dân tộc. Tuy nhiên, nhà thơ
không chỉ kế thừa mà đã nâng các giá trị nhân văn đó lên một bước mới, đem lại
cho nó giá trị nhân loại. Nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh của
Nguyễn Du đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và những phẩm chất truyền thống cao quý của
người phụ nữ Việt Nam như tấm lòng thủy chung son sắt, sự nết na, thùy mỵ, bản
lĩnh và nghị lực, thái độ coi trọng nhân cách, coi trọng sự trắng trong của tâm
hồn và thể xác... Nguyễn Du ca ngợi tài năng đặc biệt của Kiều - những thứ tài
không những không được người đời chấp nhận mà còn bị khinh rẻ, dập vùi. Sự tài
hoa đã trở thành tiêu chí của cái đẹp, cái thẩm mỹ. Ông không xây dựng nhân vật
của mình thành một thánh nữ. Thúy Kiều của Nguyễn Du hết sức đời thường, gần
gũi, như bước vào trang sách từ chính cuộc đời thực.
Khác với quan niệm gò bó của Nho giáo, Nguyễn Du thông qua
các tác phẩm của mình đã cho chúng ta thấy chính tình yêu thương, trong đó có
tình yêu đôi lứa, đã cảm hóa con người, làm con người trở nên nhân đạo hơn, tốt
đẹp hơn. Thúy Kiều của Nguyễn Du trong những giờ phút khắc nghiệt nhất của cuộc
đời đã nghĩ đến mối tình đầu với Kim Trọng và điều đó giúp nàng vượt lên khỏi
cái chết, sự đau khổ để tiếp tục sống và giữ gìn nhân phẩm của mình. Quan niệm
của Nguyễn Du về chữ “trinh”, về nhân cách con người thật mới mẻ, nhân đạo, phá
vỡ những chuẩn mực đạo đức giáo điều xa rời thực tế của tư tưởng chính thống.
Thiên nhiên trong Đoạn trường tân thanh ở các đoạn miêu tả tình yêu đôi lứa đều
hết sức đẹp đẽ, rung động bởi nó mang tâm trạng và niềm vui của con người.
Khát vọng tự do, công lý, khát vọng chính nghĩa đều là những
chủ đề lớn của văn học thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX được thể hiện một cách
mãnh liệt trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đặc biệt qua hai nhân vật
Từ Hải và Thúy Kiều. Những khát vọng đó cũng là khát vọng của bao đời, được thể
hiện một cách mãnh liệt trong văn học dân gian và trong văn học viết dân tộc,
đã được thể hiện một cách tài hoa trong tác phẩm của Đại thi hào.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: “Trời còn để có hôm nay
/Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”..; “Sen tàn cúc lại nở hoa..” hay “ Đến
bây giờ mới thấy đây/ Mà lòng đã chắc những ngày một hai”... Từ nửa thế kỷ trước,
trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, đất nước còn muôn vàn gian khổ, cùng với
Nghị quyết của Ủy ban Hòa bình thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã tổ chức Kỷ niệm
200 năm Ngày sinh Nguyễn Du. Truyện Kiều đã cùng bao thế hệ thanh niên ra trận,
đã ru những đứa bé trong hầm trú ẩn, vang lên trong xưởng máy, trên ruộng đồng,
ngõ xóm, cùng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày hôm nay, Nguyễn Du lại
cùng chúng ta bước vào một kỷ nguyên mới của dân tộc: kỷ nguyên của hòa bình, hữu
nghị, hợp tác, phát triển, hội nhập với thế giới, sánh bước cùng nhân loại.
Truyện Kiều đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao trong đời sống xã hội, trong
văn hóa và văn học, trở thành cuốn sách của mọi người, tạo nên chung quanh nó một
môi trường văn hóa đặc biệt với những hình thức như bói Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều,
chèo Kiều, cải lương Kiều, v.v… Những người nông dân Hà Tĩnh quê hương Đại thi
hào đã cầm cuốn Kiều soi lên ánh mặt trời để cố tìm xem đằng sau những dòng chữ
kia có chứa đựng sức mạnh gì mà ghê gớm đến vậy? Vì sao mà nó có thể làm lay động
lòng người sâu sắc đến nhường vậy? Ngẫm thay, sức mạnh đó chính là sức mạnh của
tình người, của những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu thẳm. Truyện Kiều chính là
vật báu vô giá muôn đời của dân tộc luôn khiến nhân loại mãi sững sờ chiêm ngưỡng.
Những giá trị nghệ thuật mang bản sắc dân tộc của Nguyễn Du đã trở thành tài sản
chung của cả nhân loại.
Từ Đại lễ long trọng kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Nguyễn Du,
chúng ta mong muốn những tư tưởng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du sẽ được các thế
hệ người Việt Nam và toàn thế giới biết đến nhiều hơn nữa, bởi đây chính là chiếc
cầu nối dân tộc ta với nhân loại. Đây cũng là dịp để tất cả chúng ta trân trọng
kế thừa, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, giới thiệu bản sắc văn
hóa với bạn bè năm châu, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước mà Nghị
quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã đề ra. Di sản nghệ
thuật của Nguyễn Du nói chung, kiệt tác Truyện Kiều nói riêng mãi trường tồn,
mãi mãi đồng hành cùng chúng ta trong công cuộc xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Nguồn:
http://www.nhandan.com.vn/

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét