Home »
Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016
Vì sao Trung Quốc không nên từ bỏ UNCLOS
Một trong những kịch bản mà một số nhà phân tích đưa ra
trong trường hợp Tòa ra phán quyết không có lợi Trung Quốc đó là nước này sẽ
tuyên bố từ bỏ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Tuy nhiên
trái ngược với những phân tích đó, có rất nhiều lý do thuyết phục để Trung Quốc
không nên từ bỏ UNCLOS.
Khi phán quyết cuối
cùng trong vụ kiện trọng tài giữa Philippines và Trung Quốc ở Biển Đông sắp được
đưa ra, đã có nhiều đồn đoán về việc Trung Quốc sẽ làm gì sau khi phán quyết được
công bố. Một trong những kịch bản đáng lo ngại hơn cả trong trường hợp Tòa ra
phán quyết không có lợi đó là Trung Quốc sẽ tuyên bố từ bỏ Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật Biển 1982 (UNCLOS).
Điều 317 cho phép các quốc gia từ bỏ UNCLOS bằng cách thông
báo bằng văn bản gửi cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Kịch bản này lần đầu tiên
được đưa ra ngay sau khi Philippines khởi kiện Trung Quốc vào năm 2013 và gần
đây được nêu chi tiết trong bài viết của Stefan Talmon có tiêu đề "Rút khỏi
UNCLOS vẫn là lựa chọn cho Trung Quốc sau khi tòa án ra phán quyết."
Talmon cho rằng từ bỏ UNCLOS sẽ là một lựa chọn khả thi cho Trung Quốc nếu Tòa
Trọng tài phán quyết tranh chấp theo hướng bác bỏ chủ quyền lãnh thổ của Trung
Quốc đối với quần đảo Trường Sa. Ông cho rằng sẽ không có bất lợi nghiêm trọng
nào cho Trung Quốc vì Trung Quốc giống như Mỹ sẽ tiếp tục được hưởng hầu hết
các lợi thế được quy định trong UNCLOS theo luật tập quán quốc tế.
Từ bỏ một điều ước mất chín năm để đàm phán, có 320 điều khoản
và chín phụ lục bao trùm nhiều vấn đề rộng lớn, với 167 quốc gia thành viên và
được coi là "bản hiến pháp" của đại dương không thể là một quyết định
bột phát. Như Talmon thừa nhận, đó phải là một lựa chọn dựa trên việc cân nhắc
cẩn trọng các mặt được và mất của việc tiếp tục tham gia UNCLOS. Tuy nhiên trái
ngược với khẳng định Talmon, có rất nhiều lý do thuyết phục để Trung Quốc không
nên từ bỏ UNCLOS.
Đầu tiên, từ bỏ UNCLOS sẽ không giúp Trung Quốc thoát khỏi
nghĩa vụ tuân theo phán quyết của Tòa trọng tài. Điều 317 của UNCLOS quy định
rõ ràng rằng việc từ bỏ không ảnh hưởng đến các quyền, nghĩa vụ hay các địa vị
pháp lý của quốc gia này bắt nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước
không còn hiệu lực đối với quốc gia đó.
Thứ hai, từ bỏ UNCLOS không hoàn toàn bảo vệ Trung Quốc chống
lại các vụ kiện tương tự trong tương lai có thể được đưa ra bởi Việt Nam,
Indonesia hoặc Malaysia ở Biển Đông hay Nhật Bản ở Biển Hoa Đông, theo như lập
luận của Talmon. Theo Điều 317, việc từ bỏ UNCLOS chỉ có hiệu lực một năm sau
khi có thông báo bằng văn bản. Trong khoảng thời gian một năm này sẽ không có
gì ngăn chặn các nước này đưa ra các vụ kiện chống lại Trung Quốc. Thật vậy,
khi Colombia rút khỏi Hiệp ước Bogota sau phán quyết năm 2012 của Tòa án Công
lý Quốc tế (ICJ) về vụ việc giữa Nicaragua và Colombia, Nicaragua đã không lãng
phí thời gian khi đệ trình một vụ việc khác chống lại Colombia trước khi thời hạn
một năm hết hạn. ICJ khẳng định rằng tòa có thẩm quyền xét xử vụ việc thứ hai
trong thời hạn một năm, vì Hiệp ước của Bogota chỉ chấm dứt hiệu lực với
Columbia một năm sau khi có thông báo từ bỏ. Như vậy, thay vì loại trừ các vụ
kiện chống lại mình, việc từ bỏ UNCLOS của Trung Quốc thậm chí còn có thể kéo
theo một loạt các vụ kiện được khởi xướng trước khi thời hạn một năm kết thúc.
Thứ ba, Trung Quốc đã tham gia rất sâu vào hệ thống UNCLOS.
Một minh chứng là Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào chế độ đáy biển sâu được thiết
lập dựa trên Phần XI của UNCLOS, trong đó cho phép các quốc gia thăm dò và khai
thác tài nguyên dưới đáy biển sâu ở những khu vực nằm ngoài thẩm quyền quốc
gia. Trên thực tế, Trung Quốc là nhà đầu tư tiên phong trong thăm dò đáy biển
sâu, đã tích cực tham gia vào việc thăm dò đáy biển sâu từ những năm 1970. Cơ
quan nhà nước của Trung Quốc là Hiệp hội Nghiên cứu và Phát triển Tài nguyên
Khoáng sản Đại dương đã ký kết ba hợp đồng về thăm dò khoáng sản dưới đáy biển
sâu với một tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm về việc quản lý các nguồn tài
nguyên này là Cơ quan quyền lực đáy đại dương (ISA).
Sự tham gia của Trung Quốc vào chế độ đáy biển sâu được thúc
đẩy không chỉ bởi khả năng thu lời từ khai thác khoáng sản mà còn bởi các lý do
chiến lược, bao gồm việc đảm bảo một nguồn cung lâu dài cho nguồn kim loại quý
hiếm để thay thế cho nguồn khoáng chất trên mặt đất và việc nâng cao năng lực
khoa học và công nghệ biển của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc từ bỏ UNCLOS, nước
này sẽ phải từ bỏ việc thăm dò hiện tại của mình và làm lãng phí thời gian, nguồn
lực và chi phí đáng kể. Cách duy nhất mà Trung Quốc có thể hưởng lợi từ chế độ
đáy biển sâu khi không phải là một bên tham gia chế độ này là đầu tư chung với
nhà thầu khác và nhận tài trợ từ một quốc gia khác, nhưng đây là một quá trình
rất phức tạp, tốn nhiều thời gian và không được đảm bảo.
Trung Quốc cũng đã tận dụng các quyền lợi của mình được quy
định trong Điều 76 Phần VI của UNCLOS để yêu sách thềm lục địa vượt quá 200 hải
lý nhằm khai thác các nguồn tài nguyên dầu và khí đốt ở đó. Điều 76 cho phép
các quốc gia có thềm lục địa đáp ứng được các tiêu chí khoa học nhất định (liên
quan đến địa chất và địa mạo của đáy biển) đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục
địa (CLCS) các thông tin để chứng minh phần thềm lục địa mở rộng theo như đề xuất
của mình. CLCS có quyền đưa ra các khuyến nghị cuối cùng và ràng buộc về việc
thiết lập giới hạn ngoài của thềm lục địa. Ngày 14/12/2012, sau khi sử dụng nguồn
lực đáng kể để thu thập dữ liệu trên đáy biển trong khoảng thời gian mười năm,
Trung Quốc đã đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài của thềm lục địa ở Biển Hoa
Đông. Đệ trình của Trung Quốc chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản
ở Biển Hoa Đông và không ngạc nhiên khi nó gây ra sự phản đối từ Nhật Bản.
Trung Quốc từ bỏ UNCLOS có thể làm tổn hại yêu sách thềm lục
địa mở rộng của mình mặc dù CLCS chưa xem xét đệ trình của Trung Quốc. Sự thật
là Trung Quốc vẫn có quyền hưởng thềm lục địa vượt quá 200 hải lý theo luật tập
quán quốc tế. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ là liệu những tiêu chí khoa học sử dụng để
thiết lập ranh giới ngoài theo quy định của Điều 76 UNCLOS có đạt tới điều kiện
của luật tập quán quốc tế hay không.
Hơn nữa, lợi ích chính của việc đệ trình lên CLCS là làm
tăng tính hợp pháp của yêu sách thềm lục địa mở rộng của một quốc gia so với quốc
gia khác và mang lại sự chắc chắn cần thiết trước khi khai thác dầu khí. Trong
phán quyết năm 2012 của Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) về vụ việc giữa
Bangladesh và Myanmar, việc cả hai bên đệ trình lên CLCS để chứng minh yêu sách
thềm lục địa mở rộng có tầm quan trọng to lớn mặc dù CLCS vẫn chưa đưa ra khuyến
nghị cuối cùng. Tương tự như vậy, trong phán quyết năm 2012 của ICJ về vụ việc
giữa Nicaragua và Columbia, việc Nicaragua không đệ trình lên CLCS khiến ICJ
không coi trọng yêu sách thềm lục địa mở rộng của Nicaragua. Nếu Trung Quốc từ
bỏ UNCLOS, yêu sách thềm lục địa mở rộng của nước này sẽ phải chịu những thay đổi
bất thường và sự bất ổn của luật tập quán quốc tế, điều này có thể ảnh hưởng đến
vị thế của Trung Quốc so với Nhật Bản ở Biển Hoa Đông.
Thứ tư, là một quốc gia thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có
quyền sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS được quy định trong Phần
XV cũng như tham gia vào các tổ chức được thành lập theo UNCLOS. Mặc dù Trung
Quốc chưa sử dụng Phần XV, nhưng nước này đã chuẩn bị những bản đệ trình dài
cho các phiên điều trần trong hai lần xin ý kiến tư vấn của ITLOS. Trung Quốc
cũng là một thành viên của ISA, có một đại diện trong Hội đồng (cơ quan ra quyết
định của ISA) trong năm nay, và hiện nay có một đại diện của trong Ủy ban pháp
lý và kỹ thuật của ISA chịu trách nhiệm phê duyệt các hồ sơ xin thăm dò và khai
thác đáy biển sâu. Trung Quốc có một thành viên trong CLCS cũng như một thẩm
phán trong ITLOS. Cơ hội tham gia vào các tổ chức và sử dụng cơ chế giải quyết
tranh chấp của UNCLOS là đặc quyền chỉ dành cho các quốc gia thành viên và cho
phép các quốc gia ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định tại các các tổ chức nói
trên. Đây không phải là đặc quyền nên từ bỏ một cách dễ dàng.
Thật vậy, trái với những gì Talmon nhận định, nước Mỹ đã trải
qua tất cả những nhược điểm mô tả ở trên khi đứng ngoài hệ thống UNCLOS. Doanh
nghiệp Mỹ có lợi ích từ các ngành công nghiệp dầu khí, năng lượng, vận tải biển,
đánh bắt cá, và truyền thông đã liên tục tranh luận trước Thượng viện Mỹ rằng
việc Mỹ không tham gia UNCLOS đã làm xói mòn các lợi ích thương mại và chiến lược
của đất nước. Ví dụ, Mỹ không thể gửi thông tin cho CLCS về thềm lục địa mở rộng,
do đó làm suy yếu sự chắc chắn về giới hạn của thềm lục địa và cản trở việc khai
thác các nguồn tài nguyên dưới đáy biển. Tương tự như vậy, Mỹ đã không thể tham
gia đầy đủ vào chế độ đáy biển sâu trong Phần XI mặc dù là một trong những nước
mạnh nhất tham gia vào việc thăm dò đáy biển trước khi UNCLOS được thông qua.
Thêm vào đó, Hải quân Mỹ vẫn luôn cho rằng tình trạng không
ký kết đã làm suy giảm uy tín của Mỹ trong quan hệ song phương và đa phương và
làm tổn hại các hoạt động biển trên toàn cầu của nước này. Các chính quyền Mỹ
qua nhiều đời đều ủng hộ việc phê chuẩn UNCLOS và chỉ một nhóm nhỏ các thượng
nghị sĩ bảo thủ đã cản trở tiến trình này. Câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc, một
cường quốc biển toàn cầu, có muốn ở cùng vị thế như Mỹ hay không khi các lợi
ích biển cốt lõi được quyết định bởi một một thứ dễ thay đổi và bất ổn như luật
tập quán quốc tế.
Cuối cùng và có lẽ cũng là lý do thuyết phục nhất, việc
Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sẽ làm suy yếu niềm tin vốn đã mong manh trong cam kết
của Trung Quốc về "sự trỗi dậy hòa bình" với tư cách là một siêu cường
toàn cầu. UNCLOS thiết lập nền một số kỳ vọng cơ bản về cách hành xử của các quốc
gia trên các đại dương và từ đó cung cấp một ngôn ngữ chung thông qua đó các
bên yêu sách, ngay cả Trung Quốc, truyền đạt các quan điểm và yêu sách của
mình. Khi căng thẳng ở Biển Đông leo thang hàng ngày thì việc Trung Quốc từ bỏ
UNCLOS có thể làm suy giảm lòng tin của các quốc gia trong khu vực. Điều này do
đó sẽ làm hỏng mọi nỗ lực của Trung Quốc trong việc theo đuổi lựa chọn theo
mong muốn của mình, đó là tìm ra một giải pháp trên cơ sở thương lượng cho
tranh chấp Biển Đông.
Phương án Trung Quốc không tuân thủ phán quyết cuối cùng của
Toà Trọng tài chắc chắn sẽ gây tổn hại đến vị thế của Trung Quốc với tư cách là
một thành viên tuân thủ pháp luật của cộng đồng quốc tế. Nếu thêm vào đó mà từ
bỏ một chế độ pháp lý lâu dài và được chấp nhận rộng rãi như UNCLOS có thể sẽ
gây ra những hệ quả sâu rộng, đi ngược lại lợi ích quốc gia lâu dài của Trung
Quốc. Việc Mỹ không phê chuẩn UNCLOS còn được dung thứ bởi vì Mỹ luôn tuân thủ
theo cơ chế UNCLOS. Tuy nhiên, việc Trung Quốc từ bỏ UNCLOS sau khi tòa án kết
luận hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là trái với UNCLOS sẽ không được chấp
nhận theo cách tương tự. Có rất nhiều hướng hành động mà Trung Quốc có thể thực
hiện sau khi phán quyết của Toà Trọng tài được công bố. Tuy nhiên, từ bỏ UNCLOS
không nên là một trong số đó.
Tara Davenport là nghiên cứu viên không thường trực tại
Trung tâm Luật pháp Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Singapore và hiện đang là
nghiên cứu sinh của Đại học Luật Yale. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên
trang The Diplomat.

- Không có bài viết liên quan
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét