Home » hoptacdoingoai
Thứ Ba, 28 tháng 2, 2017
Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản: Đối tác chiến lược toàn diện
Kể từ khi
thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản
không ngừng được củng cố và phát triển với nội dung hợp tác ngày càng sâu rộng.
Tháng
4/2002, nhân chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi đến Việt Nam,
hai nước đã thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác tin cậy, ổn định lâu dài.
Đến tháng
4/2009, Việt Nam và Nhật Bản nhất trí xây dựng quan hệ đối tác chiến lược và đến
tháng 3/2014, nâng cấp lên mức “đối tác chiến lược toàn diện,” đưa Nhật Bản trở
thành quốc gia đầu tiên trong nhóm G7 thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với
Việt Nam.
Để khẳng định
sự phát triển chiều sâu của quan hệ Việt Nam-Nhật Bản, Tuyên bố tầm nhìn chung
nhân chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Tokyo hồi tháng 9/2015 đã
đánh giá cao “sự phát triển toàn diện và thực chất của mối quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện giữa hai nước.”
Có thể khẳng
định mối quan hệ hữu nghị thân thiện Việt Nam-Nhật Bản hiện nay là sự nỗ lực và
thiện chí của hai chính phủ trong suốt hơn 40 năm qua.
Bên cạnh đó,
không thể không kể đến một yếu tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển bền vững
của mối quan hệ này, đó chính là sự kết nối tự nhiên giữa hai quốc gia cùng ở
khu vực châu Á-Thái Bình dương, hai dân tộc có nhiều điểm tương đồng, một sự gắn
kết được coi là có đặc tính lịch sử.
Về chính trị,
quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản trong những năm qua liên tục được củng cố và
tăng cường, ngày càng đi vào thực chất, trên cơ sở lợi ích chiến lược tương đồng.
Quan hệ hai nước đang ở giai đoạn tốt nhất trong lịch sử kể từ khi thiết lập
quan hệ ngoại giao và có sự tin cậy cao. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường
xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế cũng như khu vực.
Hiện hai nước
duy trì một số cơ chế đối thoại hiệu quả như: Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật do hai Bộ
trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (từ năm 2007); Đối thoại Đối tác chiến lược
Việt Nam-Nhật Bản về ngoại giao-an ninh-quốc phòng (cấp Thứ trưởng ngoại giao,
từ năm 2010); Đối thoại chính sách quốc phòng Việt - Nhật cấp thứ trưởng (từ
tháng 11/2012); Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2013)...
Về lĩnh vực
kinh tế, Nhật Bản tiếp tục là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam
và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng
10/2011).
Đánh giá Việt
Nam là một trong những nền kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát triển,
Nhật Bản xác định quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam là trọng tâm trong việc
thúc đẩy quan hệ hai nước.
Đến nay, Nhật
Bản đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai, đối tác thương mại lớn thứ
tư và đối tác lớn thứ 3 về du lịch của Việt Nam. Theo số liệu chính thức, tính
đến hết 2016, Nhật Bản có hơn 3.200 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam với
tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 42 tỷ USD, chiếm 15% tổng FDI vào Việt Nam.
Kim ngạch
thương mại hai chiều giữa hai nước năm 2016 đã đạt gần 30 tỷ USD, và phấn đấu
tăng gấp đôi đến năm 2020. Bên cạnh đó, Nhật Bản, là quốc gia viện trợ phát triển
chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam,
chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt
Nam. Nhiều dự án của Nhật Bản đã hoàn thành và đưa vào khai thác rất hiệu quả,
đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Cùng với sự
mở rộng quan hệ kinh tế, hợp tác văn hóa, giao lưu giữa nhân dân hai nước cũng
được thúc đẩy mạnh mẽ. Học tiếng Nhật, tìm hiểu văn hóa Nhật Bản đang phát triển
thành một trào lưu tại Việt Nam. Chưa bao giờ các sản phẩm văn hóa của Nhật Bản
từ cổ điển, như nghệ thuật cắm hoa ikebana, nghệ thuật kiếm đạo kendo, nghệ thuật
gấp giấy origami... đến hiện đại như truyện tranh manga, phim hoạt hình anime,
thời trang cosplay, ngắm hoa anh đào... được thanh thiếu niên Việt Nam ưa chuộng
như thế.
Đổi lại,
ngày càng có nhiều người Nhật Bản học tiếng Việt, tìm đến Việt Nam để tìm hiểu
những nét đẹp của con người và đất nước nơi đây. Sự tương đồng về văn hóa, tính
cách thân thiện đã tạo thành một mối liên kết tự nhiên giữa người Việt Nam với
người Nhật Bản. Sự chân tình, cởi mở, thân thiện là một trong những yếu tố đưa
Việt Nam và Nhật Bản trở thành những điểm đến du lịch yêu thích của nhau.
Trong năm
2016, có tới gần 700.000 lượt du khách Nhật Bản sang thăm Việt Nam, trong khi số
du khách Việt Nam thăm Nhật Bản trong năm 2016 vượt qua con số 200.000 người.
Bên cạnh đó,
Việt Nam còn là quốc gia có tỷ lệ tăng tu nghiệp sinh kỹ thuật và du học sinh
cao nhất tại Nhật Bản. Theo Bộ Tư pháp Nhật Bản, năm 2016, Việt Nam có 58.820
du học sinh và 71.983 tu nghiệp sinh kỹ thuật học tập và làm việc tại Nhật Bản.
Sự phát triển mạnh trong giao lưu thương mại, văn hóa và du lịch đã làm bùng nổ
nhu cầu đi lại giữa hai nước, đưa Việt Nam và Nhật Bản trở thành các thị trường
hàng không trọng điểm của nhau với tần suất các chuyến bay thẳng lên tới hàng
chục chuyến mỗi tuần.
Hợp tác mọi
mặt giữa Việt Nam với Nhật Bản càng được củng cố mạnh mẽ hơn khi hai nước xây dựng
được một mối quan hệ tin cậy về chính trị thông qua các cuộc đối thoại liên
chính phủ và hàng loạt các cuộc tiếp xúc, chuyến thăm cấp cao giữa hai nước. Bộ
Ngoại giao Nhật Bản đã khẳng định mối quan hệ Việt Nam và Nhật Bản là đối tác
chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng châu Á.
Trong xu thế
này, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Nhà Vua và Hoàng Hậu Nhật Bản, bắt
đầu từ ngày 28/2, là một sự kiện quan trọng được hai nước chào đón. Với tư cách
là biểu tượng cao quý của đất nước, là lãnh đạo tinh thần của dân tộc Nhật Bản,
chuyến thăm của Nhà Vua và Hoàng Hậu Nhật Bản đến Việt Nam lần này được coi là
mang ý nghĩa biểu tượng, cũng là một dấu mốc lịch sử trong quan hệ hợp tác hữu
nghị giữa hai nước; thể hiện tình cảm và sự quan tâm của Nhật Bản đối với đất
nước và nhân dân Việt Nam; góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng
Việt Nam-Nhật Bản ngày càng phát triển toàn diện, tăng cường sự hiểu biết giữa
hai dân tộc, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước./.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét