Home » thoisu
Thứ Ba, 31 tháng 10, 2017
“Tam quyền phân lập” không phải là sự lựa chọn của Việt Nam
Điều 2, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân” nên “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Do đó, mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam không phải và không thể “tam quyền phân lập”.
Điều đó không phải do ý chí chủ quan của bất kỳ một chủ
thể nào mà do những quy định tất yếu khách quan chi phối, bắt nguồn từ bản chất
của chế độ chính trị, chế độ kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn và kinh nghiệm 30 năm đổi mới đã qua cũng như việc
học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong tiến trình hội nhập quốc tế
đã cho thấy, tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường lối đổi
mới, lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không tam quyền phân lập mà thống nhất quyền lực của nhân dân, bởi nhân dân, vì
nhân dân.
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền là sự đồng
thuận, phù hợp của Việt Nam với xu thế chung, phổ biến của tiến bộ lịch sử và sự
phát triển xã hội trong thế giới hiện đại và đương đại. Tính phổ biến đó được
thể hiện ở Việt Nam thông qua tính đặc thù. Nhận rõ tính phổ biến của thế giới
để hiểu đầy đủ hơn tính đặc thù của dân tộc trong đổi mới và phát triển, hội nhập
quốc tế và hiện đại hóa đất nước. Đây là một tương tác biện chứng cần phải tính
đến trong xác định đường lối, chính sách, lựa chọn mô hình và tìm kiếm các giải
pháp phát triển. Chủ động hội nhập và tiếp thu có chọn lọc những giá trị và
kinh nghiệm của các nước để Việt Nam không ở bên ngoài tiến trình phát triển
chung của thế giới. Mặt khác, với tư duy đổi mới, phát huy tinh thần chủ động,
sáng tạo, cần phải độc lập giải quyết những vấn đề của chính mình trong phát
triển, không sao chép máy móc giáo điều mô hình bên ngoài không phù hợp với đặc
điểm, điều kiện của Việt Nam. Quan điểm đó được chính thực tiễn (từ thực tiễn
biến đổi của thế giới và thời đại đến thực tiễn đất nước và dân tộc) soi sáng,
chỉ dẫn. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện thống nhất quyền lực
trên cơ sở phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp,... là sự lựa chọn đúng đắn, hợp
lý mô hình tổ chức nhà nước ở nước ta.
Đây là câu trả lời lý luận được hình thành từ tổng kết
thực tiễn đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta qua chặng đường 30
năm. Có thể xem đó là một thành quả lý luận đánh dấu bước trưởng thành tư duy
lý luận của Đảng về xây dựng chính thể, về lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo xã hội
với tư cách Đảng cầm quyền.
Nhà nước pháp quyền ra đời là một bước tiến lớn, đánh
dấu trình độ phát triển trong lịch sử nhà nước từ học thuyết lý luận đến các mô
hình tổ chức nhà nước trong thực tiễn chính trị. Xã hội khi được tổ chức thành
nhà nước, được đặc trưng thành xã hội chính trị với hai lĩnh vực cơ bản và quan
trọng nhất: kinh tế và chính trị. Một trong những trình độ phát triển của xã hội
hiện đại là được xác định bởi nhà nước pháp quyền. Đây là một chỉ báo về xã hội
văn minh chính trị mà loài người đã đạt được trong thời đại cách mạng tư sản với
vai trò lịch sử của giai cấp tư sản. Nói tới nhà nước pháp quyền là nói tới vai
trò của pháp luật trong đời sống xã hội, trong tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, giữa pháp luật và quyền lực được nhận thức
và giải quyết trong quá trình lịch sử hết sức lâu dài và phức tạp, đi xuyên qua
các cuộc đấu tranh giai cấp với những xung đột, mâu thuẫn đối kháng giữa các
giai cấp vì lợi ích và quyền lực, từ kinh tế đến chính trị, nhà nước mang bản
chất giai cấp, là công cụ để thực hiện lợi ích và quyền lực, từ kinh tế đến
chính trị. Giai cấp thống trị nắm lấy quyền lực nhà nước, thông qua sức mạnh của
quyền lực nhà nước để nhân danh đại diện cho ý chí và quyền lực của cả xã hội.
Bản chất giai cấp của nhà nước trở thành một thuộc tính phổ biến, vốn có ở mọi
nhà nước, mọi thời đại, mọi chế độ chính trị. Ngay trong chủ nghĩa xã hội, dù
nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho ý chí và quyền
lực của toàn thể nhân dân nhưng vẫn là nhà nước gắn liền với thuộc tính giai cấp.
Điểm mới và khác của nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân là ở chỗ, giai cấp
công nhân không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó chỉ tìm thấy lợi ích của
mình khi thực hiện được lợi ích xã hội. Do đó, giai cấp công nhân một khi trở
thành giai cấp thống trị trong nhà nước thì sứ mệnh lịch sử của nó là thực hiện
quyền lực của nhân dân. Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân là nhà nước
mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thống nhất quyền lực vào nhân
dân.
V.I. Lê-nin nhấn mạnh: trong chủ nghĩa xã hội, đối
kháng sẽ mất đi nhưng mâu thuẫn thì còn lại. Thống nhất quyền lực nhưng vẫn có
những khác biệt trong cộng đồng nhân dân. Nhà nước pháp quyền tuy đạt đến trình
độ hiện đại về hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, phương thức quản lý, kỹ
thuật và công nghệ xây dựng thể chế, nhất là luật pháp, về tính chuyên nghiệp của
đội ngũ công chức,... nhưng vẫn là nhà nước mang bản chất giai cấp, thuộc về một
giai cấp. Tính giai cấp luôn luôn là thuộc tính nổi bật, điển hình của nhà nước,
trở thành một nguyên lý kinh điển trong học thuyết mác-xít về nhà nước. Sự thật
ấy về nhà nước tồn tại một cách khách quan, cho dù các nhà tư tưởng của giai cấp
thống trị này hay giai cấp thống trị khác từ lập trường, quan điểm, ý thức hệ
khác nhau mà thừa nhận hay không thừa nhận.
Nhấn mạnh thuộc tính bản chất giai cấp của nhà nước
nhưng không tuyệt đối hóa nó, không xem đó là thuộc tính duy nhất, tĩnh tại, bất
biến. Bởi, nhà nước nằm trong xã hội, là sản phẩm có tính lịch sử của lịch sử
xã hội, của những biến đổi các mối quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trong cộng
đồng thế giới, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, trong bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày nay.
Trong sự phát triển của tư duy chính trị - pháp lý hiện
đại, vấn đề nhà nước pháp quyền không chỉ nhận thức và giải quyết trên bình diện
vai trò của pháp luật, quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, giữa pháp luật và
quyền lực nhà nước thường gắn trực tiếp với chủ thể là giai cấp thống trị mà
còn là dân chủ, quyền con người và quyền công dân, là những bảo đảm pháp lý và
thực hiện trong thực tế đời sống các nguyên tắc, các chuẩn mực tự do, công bằng,
bình đẳng giữa cá nhân với cộng đồng.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng chính
trị - pháp lý tiến bộ. Việc tìm kiếm mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo
nguyên tắc pháp quyền, thực hiện dân chủ, thực hiện và bảo vệ những quyền cơ bản
của con người, của công dân là hướng đích quan trọng bậc nhất nhằm hiện thực
hóa tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
Theo đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền của I. Kant
và các nhà tư tưởng tiến bộ thế kỷ XVII - XVIII đưa ra nhằm chống lại nhà nước
chuyên chế, cực quyền và sự độc đoán, chuyên quyền, các hành vi lạm quyền, lộng
quyền có giá trị và ý nghĩa giải phóng trên các bình diện chính trị, pháp lý và
nhân văn. Chiều sâu của tư tưởng nhà nước pháp quyền được nhận biết bởi dân chủ,
tự do và mối tương quan giữa dân chủ, tự do với nhân quyền (bao hàm cả dân quyền),
xác lập những thể chế và cơ chế để thực hiện quyền đồng thời kiểm soát quyền lực,
ngăn chặn và phòng ngừa tình trạng quyền lực bị tha hóa bởi chuyên quyền và lạm
quyền, bởi những hành vi phi pháp của những người nắm quyền. Xây dựng nhà nước
pháp quyền do đó phải dựa trên những nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của pháp
luật và pháp chế. “Thượng tôn pháp luật” không chỉ được tuyên bố mà còn phải được
thực hiện trong đời sống nhà nước, trong xã hội, trong ý thức, hành vi và lối sống
của các công chức và công dân.
Có thể nói tới những định đề quan trọng thể hiện giá
trị lý luận và thực tiễn của nhà nước pháp quyền trong học thuyết của Locc (nhà
tư tưởng người Anh ở thế kỷ XVII) và Montesquieu (luật gia người Pháp, thế kỷ
XVIII) cũng như các nhà tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Đó là: (1) Cho phép
làm tất cả những gì mà luật không cấm đối với công dân và cấm làm những gì mà
luật không cho phép đối với những người nắm quyền (các quan chức, công chức,
viên chức trong các cơ quan công quyền). (2) Sự bình đẳng và tự do của mọi người
trong đời sống xã hội, trước pháp luật. (3) Quyền lực phải được kiểm soát và kiềm
chế để ngăn chặn lạm quyền. Để thực hiện yêu cầu này, Montesquieu chủ trương,
phân quyền giữa ba loại quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba quyền đó cần nằm
trong tay ba cơ quan khác nhau, kiềm chế lẫn nhau. Đó chính là “tam quyền phân
lập”, nội dung cốt yếu, chủ đạo trong học thuyết của Ông mà chúng ta có thể nhận
rõ “hạt nhân hợp lý” trong tư tưởng của Ông về dân chủ - pháp quyền, còn tam
quyền phân lập không phải là cái duy nhất của mô hình tổ chức nhà nước, càng
không phải là sự lựa chọn để xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam như đã nói.
Học thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu, ở một
mức độ nào đó, có thể nói mang ý nghĩa khai sáng về tư tưởng lý luận, còn trong
thực tế, tính khả thi của nó là không nhiều, ngay cả trong nhà nước tư sản,
trong chủ nghĩa tư bản. Vấn đề đặt ra là bảo đảm sự ngự trị của luật, pháp luật,
trước hết là hiến pháp - luật gốc, luật cơ bản của nhà nước trong nhà nước và
xã hội. Bản thân nhà nước, chủ thể sản xuất ra luật pháp cũng phải được kiểm
soát, cũng là đối tượng kiểm soát của xã hội, của người dân. C. Mác đã nhấn mạnh:
sự tự do được thừa nhận về mặt pháp lý chỉ tồn tại trong nhà nước và dưới hình
thức luật.
Trở lại vấn đề “tam quyền phân lập” và lý thuyết phân
quyền, dùng quyền lực kiểm soát quyền lực, dùng quyền lực đối trọng, kiềm chế
quyền lực trong mô hình nhà nước pháp quyền của Montesquieu, có thể nói, khi
còn là một giai cấp đang lên, giai cấp tư sản tiến hành cách mạng tư sản, tấn
công vào quyền lực của giai cấp phong kiến chuyên chế độc tài, “phá hủy không
thương tiếc trật tự cổ truyền” để mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản,
như C. Mác nói: nó rất cần tới lý luận về xây dựng thể chế pháp quyền. Lý luận
đó đáp ứng được yêu cầu giải phóng, thực hiện lý tưởng tự do mà giai cấp tư
sản cần để giải phóng sức sản xuất tư bản chủ nghĩa, khẳng định địa vị thống
trị của nó. Đó còn là hậu thuẫn về tư tưởng lý luận cho giai cấp tư sản tập hợp
lực lượng trong xã hội chống phong kiến chuyên chế và chế độ quân chủ, xác lập
nền cộng hòa tư sản. Song, khi đã nắm được quyền lực, giai cấp tư sản tất yếu
phải nắm lấy toàn bộ quyền lực nhà nước. Phân quyền và phân lập các quyền trên
thực tế chỉ dừng lại như một tuyên bố pháp lý, bị hình thức hóa bởi chính tham
vọng quyền lực của giai cấp tư sản đang nắm quyền thống trị. Phân chia quyền
lực, kiểm soát quyền lực, dùng quyền lực để đối trọng và kiềm chế quyền lực
không dễ gì thực hiện được; hơn nữa, do những mâu thuẫn về lợi ích và cạnh
tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế mà giai cấp tư sản càng phải tập trung sức
mạnh để củng cố quyền lực. Đấu tranh quyền lực với những xung đột giữa các nhóm
lợi ích trong giai cấp tư sản là minh chứng thực tế về bản chất giai cấp tư
sản trong nhà nước pháp quyền tư sản.
Những tư tưởng về pháp quyền và nhà nước pháp quyền, về
tự do, dân chủ, công bằng và bình đẳng thường bị khúc xạ dưới lăng kính lợi ích
và quyền lực tư sản, chỉ nhằm phục vụ cho chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản
thống trị. Dân chủ và quyền con người, quyền công dân vốn là những giá trị xã hội
cao quý, phục vụ sự phát triển của cá nhân và cộng đồng, là những thước đo của
tiến bộ lịch sử cũng không thể thực hiện đầy đủ và thực chất trong môi trường
xã hội tư sản - nơi mà những bất công và phân cực còn ngự trị. Đó là chưa nói tới,
ở các nước tư bản và đế quốc chủ nghĩa, những giá trị và lý tưởng cao quý này
thường bị các thế lực tư sản thống trị lợi dụng như một chiêu bài để can thiệp
vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền của các nước khác.
Nói tóm lại, “tam quyền phân lập” là một tìm tòi lý luận,
đem lại những gợi mở có ý nghĩa để xây dựng thể chế pháp quyền, nhà nước pháp
quyền, thực hiện dân chủ và quyền con người trong xã hội hiện đại. Song, những
mâu thuẫn và hạn chế của nó nằm ngay trong bản chất của nhà nước pháp quyền tư
sản, ngay cả trong thuyết đa nguyên chính trị và đa đảng, trong đấu tranh quyền
lực của các đảng phái chính trị tư sản nhằm giành ưu thế thao túng quyền lực
nhà nước. Vì vậy, tam quyền phân lập không phải là mô hình tổ chức quyền lực
nhà nước ở nước ta.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, là một trong những đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời là một trong những phương hướng xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta và là điều kiện bảo đảm cho Việt Nam hội nhập quốc tế
trong một thế giới toàn cầu hóa. Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”1. “Trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải
tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn”2.
Điều này nhất quán với nguyên tắc tổ chức quyền lực
nhà nước đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 “Quyền lực nhà nước là thống
nhất” bởi “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Do đó, vấn đề sâu xa,
cốt yếu của nhà nước pháp quyền ở nước ta là đảm bảo dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của người dân, phát triển năng lực làm chủ và thực hành dân chủ của
nhân dân trên tư cách người chủ của nhà nước và xã hội. Không phân chia quyền lực
nhưng phải đặc biệt phân định, phân biệt rõ các quyền, trên cơ sở phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đổi mới đồng bộ từ
Quốc hội (lập pháp) đến Chính phủ (hành pháp) và Tòa án, Viện Kiểm sát (tư
pháp) “và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả”3, đó là tinh gọn tổ chức bộ máy đi liền với chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức. Đây là chìa khóa để giải quyết vấn đề chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một vấn đề quan trọng khác là phải “Tiếp tục hoàn thiện
cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”4. Có cơ chế bảo hiến tốt mới có thể đẩy mạnh
xử lý các hành vi vi hiến một cách công khai, minh bạch, bình đẳng. Không có
vùng cấm, nhà nước ở trong xã hội và của người dân chứ không đứng trên, không ở
bên ngoài xã hội; kiểm soát quyền lực ở các cấp chính quyền. Đẩy mạnh cải cách
hành chính đồng bộ với cải cách tư pháp, làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa
các cơ quan, tổ chức trong cơ cấu nhà nước cũng như trong hệ thống chính trị.
Tăng cường các chế tài để xiết chặt kỷ luật, kỷ cương, pháp chế và trách nhiệm
đối với người dân. “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và
trong đội ngũ cán bộ, công chức”5. Đảm bảo tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa
cao của đội ngũ công chức, đề cao đạo đức công chức và kỷ luật công vụ để phục
vụ dân có hiệu quả, tăng trưởng niềm tin và mức độ hài lòng của người dân đối với
Nhà nước và công chức.
Để tạo ra những chuyển biến đó, đòi hỏi sự nỗ lực và
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể trên
tinh thần dân chủ, đoàn kết, đồng thuận vì thắng lợi của đổi mới và phát triển
mà sâu xa là phát triển con người - người dân, những người chủ của xã hội dân
chủ, của nhà nước pháp quyền.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét