Home » biendao
Thứ Ba, 31 tháng 10, 2017
Vương triều Nguyễn trong vai trò quản lý Biển Đông
BienDong.Net: Để bảo vệ chủ quyền biển đảo của
đất nước, các triều đại phong kiến Việt Nam đều coi trọng và đầu tư nguồn lực
xây dựng lực lượng thủy binh hùng mạnh. Lực lượng thủy quân của các triều đại
Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã được hình thành và không ngừng lớn mạnh và hoàn
thiện.
Lực lượng thủy
binh đó đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giữ gìn đất nước với các dấu ấn lịch
sử qua từng giai đoạn.
Các tài liệu
còn được lưu giữ đến ngày nay đã khẳng định ít nhất là từ thế kỷ 17, các triều
đình phong kiến Việt Nam đã xác lập chủ quyền và quản lý, hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, đồng thời khai thác và làm chủ Biển Đông. Sách Đại Nam Nhất Thống
Chí triều Nguyễn có chép: “Phía Đông có dải đảo cát nằm ngang (Hoàng Sa đảo) liền
với biển xanh làm hào che, phía Tây khống chế vùng Sơn Man có lũy đá dài chồng
chất giữ cho vững vàng, phía Nam kề bên tỉnh Bình Định, có sườn núi Bến Đá làm
mũi chặn ngang, phía Bắc tiếp giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh sa có thể làm giới
hạn”.
Đặc biệt, dưới
triều Nguyễn, lực lượng thủy quân đã được xây dựng với quy mô lớn nhằm bảo vệ hải
giới, bởi lúc này con đường tơ lụa trên biển được các nước phương Tây mở rộng
và Việt Nam nằm trên con đường đó.
Năm 1802,
Nguyễn Ánh (Gia Long) đánh bại Tây Sơn, thiết lập Vương triều Nguyễn, cai quản
một nước Việt Nam thống nhất, rộng dài và ổn định trọn vẹn như ngày hôm nay.
Vua Gia Long đã ra sức phát triển lực lượng thuỷ quân, đóng thuyền buồm, tầu
chiến và cử tầu thuyền ra nước ngoài. Vua Gia Long từng lệnh cho Bộ Công tổ chức
biên soạn cuốn Duyên hải lục ghi chép độ sâu của thuỷ triều ven biển và cây số
đường biển. Một điểm nổi bật trong triều đại vua Gia Long là hoạt động tích cực
trong việc thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Theo sách Đại
Nam thực lục Chính biên ghi chép thì vào năm 1803, nghĩa là chỉ mấy tháng sau
khi thành lập Vương triều Nguyễn, vua Gia Long “lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ
ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa”. Không chỉ có đội
Hoàng Sa, ông cho tái lập đội Bắc Hải và năm 1805 cho đặt cả đội Hoàng Sa, Bắc
Hải vào trong cơ cấu tổ chức chung của các đội Trường Đà, có chức năng khai
thác và quản lý toàn bộ khu vực Biển Đông kéo dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận.
Đặc biệt liên tục trong các năm 1815, 1816, Gia Long “sai đội Hoàng Sa là bọn
Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển”, triển khai các hoạt động thực
thi chủ quyền một cách kiên quyết và đồng bộ.
Hoạt động thực
thi chủ quyền của vua Gia Long ở Hoàng Sa, Trường Sa không chỉ không chỉ được
lưu giữ, ghi chép lại trong các bộ sách chính sử của triều đình mà còn được nhiều
người phương Tây chứng thực và để cao. Giám mục người Pháp Jean Louis Taberd đã
từng nhiều năm truyền giáo ở Trung Kỳ và Nam Kỳ đầu thế kỷ 19 đã ghi nhận trong
Tài liệu về địa lý của Cochinchina trong Tạp chí xã hội Châu Á: “năm 1816, vua
Gia Long đã cho cắm cờ chính thức giữ chủ quyền ở Hoàng Sa và không có ai tranh
giành với ông ta”.
Lực lượng hải
quân của vua Gia Long được mô tả là “Hạm đội bao gồm những pháo thuyền mang
theo từ 16 đến 22 khẩu đại bác. Những thuyền lớn có từ 50 đến 70 mái chèo, những
thuyền nhỏ có 40 hoặc 44 mái chéo”.
Đến cuối đời
Gia Long, xu thế quân sự hóa và chính quy hóa các đội Hoàng Sa, Bắc Hải ngày
càng mạnh theo hướng quy thuộc vào đội Thủy quân. Các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hoạt
động mạnh và hiệu quả dưới thời vua Gia Long cho đến đầu thập kỷ 20 của thế kỷ
XIX thì được tích hợp vào đội Thủy quân của triều vua Minh Mệnh. Đội Thủy quân
là quân đội chính quy của nhà nước, mặc nhiên được mở rộng tuyển chọn lực lượng
trong cả nước, nhưng những nguời chuyên trách công việc ở Hoàng Sa, Trường Sa vẫn
chủ yếu tuyển chọn từ những người dân An Vĩnh, Sa Kỳ và đảo Lý Sơn. Phạm vi hoạt
động của đội Thủy quân là trên toàn tuyến biển đảo cả Hoàng Sa, Trường Sa và
các vùng biển đảo khác thuộc chủ quyền của nước Đại Nam (Việt Nam).
Dưới triều
vua Minh Mạng thủy quân nhà Nguyễn được tổ chức chặt chẽ và quy củ. Ngoài nhiệm
vụ đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ thủy quân nhà Nguyễn còn phải thực thi nhiệm vụ
quan trọng đó là cắm mốc, dựng bia chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Lực lượng thủy
quân nhà Nguyễn được vua Minh Mạng cải tiến, ông định kích thước và kiểu dáng
cho từng hạng thuyền làm chuẩn mực để các xưởng thuyền theo các quy thức đó mà
đóng. Minh Mạng đã cho đóng một số thuyền máy hơi nước theo kiểu phương Tây và
mua một số tàu hơi nước đi biển của phương Tây để tăng cường cho lực lượng
phòng thủ biển ở các vị trí then chốt.
Năm Nhâm Ngọ
1822, vua Minh Mạng cho mua một chiếc thuyền bọc đồng của Pháp đặt tên là Điện
Dương tức là sấm sét để làm mẫu cho các xưởng đóng thuyền nghiên cứu và đóng
theo mẫu thuyền này.
Sách Đại Nam
Thực Lục có chép: ”Tháng 6 năm ấy, vua sai Thống chế thủy sư Phan Văn Trường
coi đóng thuyền hiệu theo kiểu Tây dương”. Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên hoàn
thành được đặt tên là Thụy Long tức điềm lành, sau đó hàng loạt thuyền bọc đồng
được đóng thêm chủ yếu là thuyền chiến, một số là thuyền dùng trong các chuyến
tuần du trên Biển Đông.
Năm 1836,
vua Minh Mạng đã ra lệnh cho Bộ Công đúc 9 đỉnh đồng khổng lồ. Cửu đỉnh được đặt
trước Thế miếu nơi thờ tự các nhà vua triều Nguyễn. Điều đáng nói là trên Cửu đỉnh
có 153 hình ảnh được khắc đều là những địa danh nổi tiếng của đất nước. Đặc biệt
trên Cao Đỉnh hình ảnh Biển Đông dậy sóng được thể hiện một cách tinh tế. Tiếp
đó trên Nhân Đỉnh có biển Nam tức Nam Hải, Chương Đỉnh có biển Tây tức Tây Hải.
Đây là ba đỉnh to cao nhất tượng trưng cho ba vị vua đầu tiên triều Nguyễn với
tầm mắt dõi ra Biển Đông. Những hình ảnh về biển đảo trên Cửu đỉnh đã khẳng định
quyền làm chủ Biển Đông và giữ vững hải phận của triều đình nhà Nguyễn thủa ấy.
Suốt chiều
dài lịch sử kể từ chúa Nguyễn đến vương triều Nguyễn đã tồn tại trên 400 năm,
đó là cả một thiên lịch sử với những sự kiện bi hùng gắn với một triều đại đầy
biến động lần đầu tiên trong lịch sử ngự trị ở một kinh đô gần biển. Trải qua
bao cuộc bể dâu kinh đô Huế đã trở thành cố đô, nhưng những gì còn lại vẫn toát
lên sự oai hùng của một vương triều vang bóng một thời. Những câu chuyện gắn với
những hùng binh một thời vượt sóng to gió lớn vâng lệnh triều đình đi trấn thủ
tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vẫn còn vẹn nguyên trong trí nhớ của các
dòng tộc trên vùng đất có một thời là kinh đô của nước Việt.
Dưới thời
vua Thiệu Trị (1841 – 1846), triều đình nhà Nguyễn phải lo đối phó với quân
Xiêm trong cuộc chiến tranh từ năm 1841 đến 1845. Do vậy, trong giai đoạn lịch
sử này, triều đình không thể tập trung toàn bộ lực lượng thuỷ quân cho công tác
khai thác biển đảo, việc cử người đi Hoàng Sa, Trường Sa nhiều lần bị đình hoãn
nhưng hoạt động chủ quyền biển đảo vẫn được duy trì. Trong thời kỳ này có rất
nhiều “đơn” xin ra Hoàng Sa, Trường Sa, đích thân vua châu phê vì công việc bận
hoặc vì bão gió chưa cho người ra Hoàng Sa, Trường Sa.
Thời kỳ triều
đại vua Tự Đức là thời kỳ khó khăn trong lịch sử. Năm 1847 tầu chiến Pháp bắn
những phát súng đầu tiên vào tầu thuyền Việt Nam ở ven biển gần Huế. Năm 1858
Pháp và Tây Ban Nha đánh vào cửa biển Đà Nẵng chiếm bán đảo Sơn Trà cuộc chiến
xâm lược của Pháp từ biển vào đã mở màn. Lực lượng thuỷ quân của triều đình phải
tập trung đối phó với cuộc xâm lược của Pháp nên không còn điều kiện để thường
xuyên ra Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng ý thức trách nhiệm về chủ quyền của mình ở
Hoàng Sa và Trường Sa vẫn giữ vững.
Đặc biệt,
trong giai đoạn Vương triều Nguyễn của vua Thiệu Trị và Tự Đức có rất nhiều Bộ
sách của Quốc sử quán triều Nguyễn được hoàn thành, trong đó đều ghi chép khá
rõ ràng về việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa
như: bộ sách Đại Nam Thực lục Chính biên được biên soạn theo lối biên niên tính
từ năm 1778 cho đến năm 1888; Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều
Nguyễn tổ chức biên soạn theo chỉ dụ của vua Thiệu Trị và được hoàn tất vào năm
Tự Đức thứ 4 (1851) và khắc in xong vào năm Tự Đức thứ 21 (1868); Đại Nam nhất
thống chí, như tên gọi của nó là bộ sách địa lý lịch sử chung và chính thống của
nước Đại Nam, do vua Tự Đức chỉ thị cho Quốc sử quán tổ chức biên soạn từ năm
1865 và về cơ bản hoàn thành vào năm 1882; Bộ sách Việt sử cương giám khảo lược
là bộ sách địa lý lịch sử của Nguyễn Thông gồm 7 quyển, trong đó 2 quyển đầu
chép về lịch sử còn 5 quyển tiếp theo chép về địa lý lịch sử. Năm 1876; Khải đồng
thuyết ước và được khắc in vào năm Tự Đức thứ 34 (1881).
Từ đầu thế kỷ
XIX với sự ra đời của Vương triều Nguyễn cai quản một vùng lãnh thổ, lãnh hải
có nguồn gốc từ 3 quốc gia cổ đại đầu tiên và được tái xác lập và ổn định tính
từ năm 1757, quan niệm về Biển Đông đã được hiểu một cách thống nhất là vùng biển
rộng dài chạy dọc theo và che chở cho toàn bộ mặt đông của lãnh thổ, tính từ
Móng Cái (ở cực Bắc) cho đến mũi Cà Mau (ở cực Nam), mở rộng ra không chỉ toàn
bộ các dải đảo ven bờ, mà cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nói một cách
khác, quan niệm thống nhất và phổ biến của Việt Nam về Biển Đông như hiện nay,
trên thực tế đã được xác lập từ đầu thế kỷ XIX.

- 越南承诺促进蓝海可持续发展
- Việt Nam khẳng định cam kết phát triển đại dương xanh, bền vững
- 第八次海洋对话:越南承诺遵守和促进《联合国海洋法公约》
- Đối thoại biển lần thứ 8: Thúc đẩy hợp tác biển tại Đông Nam Á
- 必须对“绿色宪章”持有正确的看法
- Cần cái nhìn đúng về bản “Hiến chương xanh”
- 应用1982年UNCLOS 促进越南成为海洋强国
- Vận dụng UNCLOS 1982 để đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh
- 心系家乡海洋岛屿
- 越南海警提高国际合作效率
- Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
- 越南努力减少海洋塑料污染
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét