Home » thoisu
Thứ Ba, 31 tháng 10, 2017
Nhân quyền nằm ngoài chủ quyền quốc gia - dân tộc?
Trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người đang là vấn đề được các nước hết sức
quan tâm. Lợi dụng vấn đề này, các lực lượng thù địch với Việt Nam đẩy mạnh chống
phá Đảng và chế độ ta. Chúng rêu rao rằng, “Quyền con người cao hơn chủ quyền
quốc gia”. Sự thực có phải như vậy?
Chống phá nước
ta về nhân quyền là một nội dung trọng tâm của các thế lực thù địch. Có điều,
chúng ta cần thấy, lực lượng tham gia vào chiến dịch chống phá ta hiện nay có sự
thay đổi theo hướng mở rộng về số lượng, thành phần, đối tượng. Đó là gồm các tổ
chức phi chính phủ (“NGOS”) ở nước ngoài được các quốc gia “hà hơi tiếp sức”, hỗ
trợ về chính trị, cung cấp tài chính,… như: tổ chức Nhà tự do (FH), Ân xá quốc
tế (AI), Phóng viên không biên giới (RSF), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ), Tổ chức
theo dõi nhân quyền (HRW),... ngoài ra, còn có một số nghị sĩ chống cộng ở Nghị
viện châu Âu, Ca-na-đa, Cộng hòa liên bang Đức, Ô-xtrây-li-a, các tổ chức, phần
tử phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài và cả những kẻ cơ hội nhiều mầu sắc
- chủ nhân nhiều trang mạng phi pháp, các tài khoản Facebook chống cộng, v.v.
Thủ đoạn chính của họ vẫn là lợi dụng vấn đề dân chủ và quyền con người, thông
qua cái gọi là các Báo cáo thường niên (hay “Phúc trình thường niên”) để xuyên
tạc, vu cáo, bôi nhọ Nhà nước Việt Nam. Phải nói rằng, họ theo dõi rất sát tình
hình Việt Nam và đặc biệt nhạy cảm đối với các vụ việc Nhà nước ta bắt giữ các
đối tượng về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” (theo Điều 88 Bộ luật Hình sự), chống người thi hành công vụ, gây mất trật
tự trị an. Qua đó, họ “kêu gọi” Việt Nam thả hết các “tù nhân lương tâm”, “lên
án” cơ quan chức năng bắt người vô lối, sai quy định. Họ nhai đi nhai lại kiểu
lập luận cũ rích, rằng: “Chế độ Việt Nam là chế độ độc tài, toàn trị”; Nhà nước
“Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng các quyền con người”, nhất là quyền tự do
ngôn luận, báo chí, tự do in-tơ-nét,… là quyền “vốn có” của tất cả mọi người”(!)?
Không những
thế, họ còn viện dẫn một cách sai lệch các quy định tại Chương II - Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ công dân của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 để bao che, biện hộ cho những hành vi vi phạm pháp luật.
Không ít nhà “chính trị”, “học giả” tự phong dựa trên một số câu chữ đã bị cắt
xén, lập luận rằng: “Quyền con người cao hơn chủ quyền (quốc gia)”, “Quyền con
người không biên giới”, v.v. Với lập luận đó, họ khuyến khích những hành động bất
hợp pháp, tạo cớ cho các tổ chức nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của
Việt Nam theo kiểu “kẻ tung, người hứng” giữa những lực lượng cực đoan, tổ chức
phản động ở nước ngoài với những kẻ tự gọi là “người bất đồng chính kiến” trong
nước. Chẳng hạn gần đây, lực lượng cực hữu ở Hoa Kỳ gây sức ép về chính trị, ra
Luật áp đặt chế tài lên chính phủ nước họ, đồng thời áp đặt cho nước khác,
trong đó có Việt Nam, với lý do vi phạm các quyền con người. Đó là Điều luật
“Chịu trách nhiệm về nhân quyền toàn cầu Magnitsky Luật S.2943, trong “Luật
Chuẩn chi ngân sách Quốc phòng năm 2017” của Hoa Kỳ (NDAA) 2017.
Vậy những việc
làm và lập luận trên của họ có phù hợp với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế
về quyền con người không? Bản chất chính trị của những lập luận đó là gì?
Trước hết,
nhận thức chung của cộng đồng quốc tế về quyền con người như thế nào? Về mặt lịch
sử, dựa trên những văn kiện quan trọng, phổ cập nhất, đến nay các chuyên gia, học
giả về quyền con người thường đề cập tới những văn kiện sau: “Bộ luật về quyền”
(1689) của Anh; “Tuyên ngôn độc lập (1776) và Bộ luật về các quyền (1789) của Mỹ”,
“Tuyên ngôn về “nhân quyền” (các quyền con người) và “dân quyền” (của công dân
1789) của Pháp; Hiến chương Liên hợp quốc, năm 1945; Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người, năm 1948 và các công ước quốc tế về quyền con người được Liên hợp quốc
thông qua. Trong đó, có 2 công ước cơ bản, là: “Công ước quốc tế về các quyền
Dân sự, Chính trị” và “Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn
hóa”, năm 1966. Hai công ước trên cùng với Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
được cộng đồng quốc tế xem là “Bộ luật nhân quyền quốc tế”.
Theo đó,
khái niệm quyền con người có hai nội dung cơ bản. Với tư cách là một giá trị
triết học - nhân văn, quyền con người là một giá trị, gồm: (1). Nhân phẩm: được
hiểu là những điều kiện về vật chất (ăn, ở, …) và tinh thần (được thừa nhận tư
cách là một con người có các quyền theo quy định pháp luật,…). (2). Tự do: được
hiểu là mọi người có quyền làm mọi điều mà pháp luật không cấm,…). (3). Bình đẳng:
là mọi người có quyền như nhau, không phân biệt về giới tính, chủng tộc, vị thế
xã hội, tài sản, v.v. (4). Tinh thần nhân đạo, khoan dung. (5). Trách nhiệm xã
hội của mỗi người với cộng đồng: được hiểu là trong khi hưởng thụ các quyền, tất
cả mọi người đều phải chịu sự hạn chế nhất định, nhằm: “Bảo vệ an ninh, trật tự
công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản
của người khác” (Khoản 3, Điều 18, 19 - Công ước quốc tế về các quyền Dân sự,
Chính trị, năm 1966). Như vậy, hoàn toàn không có chuyện quyền con người (quyền
cá nhân) cao hơn chủ quyền; không có chuyện cá nhân có thể làm bất cứ điều gì
mà có thể “quên” đi trách nhiệm xã hội. Nói cách khác, quyền con người ở đâu,
quốc gia nào, chế độ xã hội nào cũng phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật quốc
gia, không được xâm hại đến quyền của xã hội, quyền và lợi ích của người khác.
Với tư cách
là một giá trị pháp lý, quyền con người là các quy định pháp luật (trong luật
quốc gia và luật quốc tế) bảo vệ và bảo đảm nhân phẩm, các nhu cầu và lợi ích về
vật chất, tinh thần của tất cả mọi người, đồng thời mỗi người phải có nghĩa vụ
đối với nhà nước và xã hội. Như vậy, quan niệm này chỉ rõ: người dân là chủ thể
của “quyền”, nhà nước là người tôn trọng và chịu trách nhiệm bảo vệ và bảo đảm
“quyền”. Cần lưu ý rằng, theo các văn kiện cơ bản của Liên hợp quốc, khái niệm
quyền con người không chỉ là quyền của cá nhân, mà còn là quyền của quốc gia,
dân tộc và quyền của tập thể - quyền của nhóm, đặc biệt là những nhóm xã hội dễ
bị tổn thương. Về quyền quốc gia dân tộc, Điều 1, (Phần I), Công ước quốc tế về
các quyền Dân sự, Chính trị năm 1966, quy định rằng: “Mọi dân tộc đều có quyền
tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị
của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá,…”. Quy định này mặc định
rằng: bất cứ một quốc gia, nhà nước nào, đều có quyền xây dựng chế độ chính trị,
hệ thống pháp luật mà không có bất cứ ai, quốc gia nào, thậm chí cả Liên hợp quốc
cũng không có quyền can thiệp. Về quyền dân tộc tự quyết, Hội nghị nhân quyền
quốc tế ở Viên (Áo) năm 1993 đã tái khẳng định: “Việc khước từ quyền tự quyết
dân tộc là sự vi phạm quyền con người”1. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên các
thành viên đã thống nhất đưa ra khái niệm “tính đặc thù” của quyền con người.
Văn kiện viết: “Cộng đồng quốc tế phải đối xử với các quyền con người trên phạm
vi toàn cầu một cách công bằng,...(và) phải luôn ghi nhớ tầm quan trọng của
tính đặc thù về dân tộc, khu vực cũng như bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn
hoá và tôn giáo; các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn
hoá,...”2. Đây là cơ sở triết học - chính trị về sự khác biệt về quyền con người
giữa các quốc gia - dân tộc. Điều này có nghĩa, không một ai được xem pháp luật
của một quốc gia nào đó làm chuẩn mực để đánh giá, phê phán pháp luật nước khác
là “không phù hợp với chuẩn mực nhân quyền quốc tế”, là “vi phạm nhân quyền”(!)
Về quyền tập
thể và quyền của “nhóm xã hội” dễ bị tổn thương, theo quan niệm chung của cộng
đồng quốc tế, quyền con người còn bao gồm “Quyền phát triển”. Theo đó, mọi người
và mọi dân tộc đều có quyền được tham gia đóng góp và hưởng thụ thành quả từ sự
phát triển về kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị, trong đó mọi quyền con người
và các tự do cơ bản cần phải được thực hiện một cách đầy đủ. Quyền của nhóm xã
hội dễ bị tổn thương, gồm: Trẻ em (Công ước về quyền trẻ em, 1989); Nữ giới
(Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, 1979 (CEDAW);
Người khuyết tật (Công ước về người khuyết tật, 2007). Về lý luận cũng như thực
tiễn, việc bảo đảm quyền của những người trong nhóm xã hội này tất yếu phải tùy
thuộc vào chính sách, pháp luật của nhà nước. Cả 3 công ước nói trên, Việt Nam
đã ký kết và phê chuẩn. Như vậy, luận điểm “Quyền con người cao hơn chủ quyền”,
“Quyền con người không có biên giới”, nếu như không xuất phát từ động cơ chính
trị xấu thì cũng là những nhận thức ấu trĩ về quyền con người.
Thứ hai, bản
chất chính trị của những lập luận “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “Nhân quyền
không biên giới” là gì ? Lập luận mà các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội,
thoái hóa về tư tưởng, chính trị đang rao giảng, tuyên truyền nhằm: (1). Ở
trong nước, chúng tạo chỗ dựa tinh thần - lý luận, pháp lý,… để cổ vũ cho các
cá nhân, tổ chức (kể cả tổ chức ảo trên mạng) tiếp tục những hành động trái
pháp luật, phá hoại an ninh quốc gia, gây rối trật tự công cộng, nếu có điều kiện
sẽ gây bạo loạn lật đổ chế độ; đồng thời, vu cáo sự lãnh đạo của Đảng ta là “chế
độ độc tài, đảng trị”, “phi nhân quyền”. (2). Ở nước ngoài, chúng lợi dụng lập
luận nói trên để cổ vũ cộng đồng người Việt, nhất là những kẻ phản bội Tổ quốc,
hận thù với cách mạng, phá hoại chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước
ta. Điển hình là Nghị sĩ Hoa Kỳ gốc Việt (bang California) Janet Nguyễn đã “viết
thư cho Tổng thống Hoa Kỳ” xuyên tạc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực
dân, đế quốc xâm lược, hòng gây áp lực với Chính phủ Mỹ hạn chế quan hệ với Việt
Nam vì lý do “nhân quyền”. Phát biểu trong cuộc họp của Thượng viện bang
California (tháng 2-2017), bà nghị “ngoại nhập” này đã xúc phạm cố Thượng nghị
sĩ Tom Hayden và bà Jane Fonda - diễn viên điện ảnh nổi tiếng Hoa Kỳ (hai người
đã từng đến Hà Nội tham gia phản đối chiến tranh Việt Nam). Hình ảnh cho thấy,
chủ tọa đã ngắt lời nhiều lần, cuối cùng yêu cầu nhân viên an ninh cưỡng chế bà
nghị sĩ (nhiều trang mạng gọi là “lôi cổ”) ra khỏi phòng họp. Như vậy, bản chất
chính trị của những lập luận “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “Nhân quyền không
biên giới” là từng bước, đi từ làm suy yếu về tư tưởng, chính trị, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân, cô lập Việt Nam đến gây mất ổn định chính trị, xã hội,
cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
Thứ ba, quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia dân tộc với
quyền con người như thế nào? Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên (Chánh cương vắn tắt
và Sách lược vắn tắt), năm 1930, Đảng ta đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt
Nam vừa nhằm giành độc lập dân tộc, vừa giải phóng xã hội, đem lại các quyền
con người và quyền công dân cho mọi người. Bước vào thời kỳ đổi mới, tháng
7-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ra Chỉ thị 12-CT/TW, khẳng định
“Quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Đó là thành quả đấu tranh lâu
dài của nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới chống lại mọi áp bức,
bóc lột” và “giải phóng con người (trong đó có việc đảm bảo các quyền con người)
gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có
dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có điều
kiện được đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất”. Kế thừa các Cương lĩnh, đường
lối, quan điểm về nhân quyền trước đó, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng, tích hợp
các giá trị của chế độ dân chủ với quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Trong đó, xác định mục tiêu là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; … con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; … có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Thể chế hóa Cương lĩnh
2011, Hiến pháp năm 2013 đã dành cả Chương II, quy định về “Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” một cách đầy đủ và tương thích với các
công ước quốc tế cơ bản về quyền con người.
Nhất quán với
quan điểm trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã sớm gia nhập, ký kết
các công ước quốc tế về quyền con người. Năm 1982, Việt Nam đã gia nhập hai
công ước quốc tế cơ bản: (1) “Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị”;
(2) “Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa”. Đến nay, Việt
Nam đã tham gia đầy đủ các công ước quốc tế về quyền con người. Như vậy, với Đảng
ta, quyền con người gắn liền với chế độ xã hội; độc lập dân tộc là tiền đề của
quyền con người. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: đặt lợi ích Quốc
gia, Dân tộc ở vị trí “tối cao” trong các mục tiêu của Đảng. Quan điểm này là
cơ sở để Việt Nam quan hệ với các quốc gia và tổ chức quốc tế, kể cả Liên hợp
quốc. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với trên 180 quốc gia, vùng lãnh
thổ, trong đó có 05/05 nước Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Trong
quan hệ, hai bên đều khẳng định nguyên tắc: tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc,
thể chế chính trị của nhau; tôn trọng chính sách, pháp luật của nhau, trong đó
có quyền con người.
Có thể khẳng
định: với Đảng, Nhà nước ta, cùng với chế độ dân chủ, quyền con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôn trọng và
bảo đảm quyền con người là trách nhiệm, đồng thời là chủ quyền của Nhà nước ta.
Không thể có “Quyền con người cao hơn chủ quyền”, “Quyền con người không biên
giới” tồn tại bên ngoài chế độ xã hội, nhà nước hiện hữu như các thế lực thù địch,
những kẻ có hận thù với cách mạng, những kẻ phản bội, cơ hội,… trong và ngoài
nước đang tuyên truyền.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét