Home » biendao
Thứ Năm, 23 tháng 11, 2017
Xu hướng phát triển tàu mặt nước của một số quốc gia châu Á
Những năm gần đây, trước tình hình an ninh biển nói
chung, khu vực châu Á nói riêng diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ khó lường,
một số nước trong khu vực, nhất là các quốc gia có biển tăng cường đầu tư trang
bị cho lực lượng hải quân. Trong đó, tàu mặt nước đã, đang là lựa chọn hàng đầu,
với nhiều chủng loại, khiến dư luận hết sức quan tâm.
Nghiên cứu quá trình đầu tư, phát triển và đưa vào
trang bị tàu mặt nước của hải quân các nước châu Á cho thấy, đây thực sự là một
cuộc cách mạng rất đa dạng, với nhiều phương thức và chủng loại khác nhau. Tuy
nhiên, căn cứ vào đặc điểm, tính năng của tàu mặt nước hiện nay, người ta có thể
chia thành ba loại cơ bản: tàu khu trục, tàu sân bay và tàu hộ vệ. Trong đó,
tùy mục đích sử dụng và điều kiện về kinh tế, việc đầu tư, trang bị tàu mặt nước
của các quốc gia cũng khác nhau.
Đối với tàu khu trục, được một số nước châu Á đặc biệt
coi trọng, xem đó là xương sống của lực lượng hải quân. Trên thực tế, sau hơn một
thế kỷ ra đời và đưa vào trang bị, tàu khu trục đã phát triển thành tàu quân sự
cỡ lớn, với lượng giãn nước đủ tải trên 5.000 tấn, thậm chí lớn hơn 10.000 tấn.
Theo đánh giá của các chuyên gia hải quân, hiện nay, tàu khu trục cỡ lớn trở
thành một trong các loại trang bị quan trọng để các quốc gia duy trì ưu thế
quân sự trên biển. Còn đối với các cường quốc quân sự thế giới, uy lực của loại
tàu này chỉ xếp sau tàu sân bay và tàu ngầm hạt nhân chiến lược. Chính vì thế,
Nhật Bản đang là quốc gia tiên phong phát triển tàu khu trục cỡ lớn, nhằm đáp ứng
các yêu cầu an ninh trên các vùng biển của mình; đồng thời, phát huy vai trò
trong việc duy trì ưu thế trang bị trong khu vực. Để phát triển loại tàu này,
Tô-ki-ô chủ trương dựa vào tàu khu trục lớp A-ta-gô (với lượng giãn nước trên
10.000 tấn) để xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo trên biển mạnh nhất
trong khu vực. Theo đó, Bộ Quốc phòng Nhật Bản đang xúc tiến triển khai việc nhất
thể hóa hệ thống phòng không chống tên lửa để trang bị cho tàu, thông qua việc
nâng cấp hệ thống tên lửa Aegis. Hiện nay, cùng với đưa vào trang bị với số lượng
lớn các tàu khu trục, Nhật Bản còn chú trọng phát triển các tàu lớp A-ta-gô với
trị giá hơn 1,5 tỷ USD mỗi chiếc. Các loại tàu này đều được trang bị hệ thống
tên lửa đa nhiệm hiện đại nhất thế giới (tính đến thời điểm này), có thể được
trang bị trực thăng săn ngầm,… đủ sức đánh chặn có hiệu quả các loại tên lửa đường
đạn của đối phương cả trên biển và trên đất liền. Đặc biệt, trong bối cảnh căng
thẳng trên bán đảo Triều Tiên tăng cao và việc Bình Nhưỡng liên tục thử tên lửa
đạn đạo, Nhật Bản đã quyết định trang bị hệ thống tên lửa đường đạn Aegis cho
06 tàu khu trục của nước này. Động thái này đã dấy lên quan ngại ở khu vực.
Cùng chung môi trường an ninh với Nhật Bản, Hàn Quốc hết
sức coi trọng việc trang bị tàu khu trục cho hải quân nước này và xác định đó
là một trong những bảo đảm quan trọng đối với khả năng tác chiến toàn diện cho
biên đội tấn công vào đất liền, phòng không, chống tàu, chống ngầm trên biển.
Tuy nhiên, khác với Nhật Bản, Hàn Quốc chủ trương dựa vào ưu thế tác chiến của
tàu khu trục lớp Hoàng đế Sê-jong để phát triển toàn diện đội tàu hải quân theo
hướng tác chiến viễn dương. Đây là bước phát triển táo bạo, được cho là nhằm đối
phó với những đe dọa an ninh đang ngày càng gia tăng trên bán đảo Triều Tiên.
Hiện tại, để tăng cường khả năng tấn công và phòng thủ cho các tàu khu trục,
Hàn Quốc gấp rút đặt hàng mua và lắp đặt hệ thống tên lửa Aegis trên các tàu
khu trục lớp Hoàng đế Sê-jong và có thể sẽ đặt mua thêm để trang bị cho các hệ
tàu khác. Với sự đầu tư trang bị này, các tàu khu trục của Xơ-un đều có khả
năng tiến công trên biển, đất liền và trên không, không chỉ bằng pháo cỡ nòng
trung bình mà còn bằng các tên lửa hiện đại.
Đối với tàu sân bay, do giá thành chi phí rất đắt, nên
chỉ một số ít nước có đủ khả năng để mua sắm, đóng mới và trang bị cho hải
quân. Hiện nay, dư luận đặc biệt quan tâm đến xu hướng phát triển tàu sân bay
trong khu vực, đặc biệt là sau khi Trung Quốc tiến hành chạy thử nghiệm tàu sân
bay tự đóng đầu tiên (với tên gọi Type 001A). Đây thực sự là dấu mốc quan trọng
trong phát triển lực lượng tàu sân bay của Trung Quốc. Với mong muốn sở hữu những
cụm tác chiến mạnh trên biển và đại dương, đã từ lâu, Bắc Kinh chú trọng phát
triển tàu sân bay theo hướng từ thấp đến cao. Năm 1985, Hải quân Trung Quốc đã
mua tàu sân bay HMAS Men-bơn (trị giá 2 triệu USD), nhằm nghiên cứu về thiết kế
cấu trúc tàu, đường băng huấn luyện. Liên tục trong các năm 1998 và 2000, Trung
Quốc lần lượt mua tàu sân bay Min-xcơ và Ki-ép, với mục tiêu nghiên cứu và thu
hút khách du lịch. Đặc biệt, năm 2002, Trung Quốc quyết định mua tàu sân bay
Va-ri-át, giá trị gần 200 triệu USD, với đường băng dài 300m, có thể mang 24
máy bay MiG-29L, Su-33 và 32 máy bay Ka29/31. Gần đây, Trung Quốc đang triển
khai đóng một tàu sân bay mới mang tên Bắc Kinh với độ giãn nước lên tới 70.000
tấn. Mặc dù vậy, nhiều chuyên gia quân sự cho rằng, năng lực thực sự của tàu
sân bay Trung Quốc so với các cường quốc hải quân khác vẫn còn nhiều thách thức.
Xuất phát từ vị thế của mình, Ấn Độ là một trong số ít
quốc gia ở châu Á quyết tâm theo đuổi chương trình tàu sân bay. Năm 2004, lần đầu
tiên Ấn Độ khởi động dự án tàu sân bay nội địa mang tên INS Vi-cren và đã hạ thủy
vào tháng 8-2013. Tàu có chiều dài 260m, rộng 60m, di chuyển với vận tốc 56km/h
và có khả năng triển khai các máy bay chiến đấu MiG-29K cùng máy bay trực thăng
Kamov và các chiến đấu cơ hạng nhẹ khác. Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện con
tàu này tốn nhiều thời gian, tiền của, và dự báo nó chỉ có thể sẵn sàng chiến đấu
sau năm 2023.
Tuy chưa phải là quốc gia sở hữu tàu sân bay, nhưng Nhật
Bản lại trang bị các tàu mặt nước có chức năng không thua kém tàu sân bay.
Trong số đó, có tàu mặt nước hộ vệ trực thăng lớp Hiu-ga với lượng giãn nước
khoảng 19.000 tấn (vượt cả tàu sân bay của I-ta-li-a và Tây Ban Nha). Đáng chú
ý là tàu mặt nước hộ vệ trực thăng lớp I-zu-mô thứ nhất, có lượng giãn nước đầy
tải lên tới 27.000 tấn (ngang với tàu sân bay lớp In-vin-xbồ của Hải quân Hoàng
gia Anh). Rõ ràng, sự ra đời của các tàu lớp I-zu-mô mới đã đánh dấu bước tiến
dài về sức mạnh quân sự của Hải quân Nhật Bản. Với kết cấu hiện nay, không cho
phép các loại tàu này vận hành máy bay cánh bằng, nhưng chỉ cần thêm một vài
chi tiết và điều chỉnh nhỏ, nó sẽ có năng lực tương tự các tàu sân bay hạng nhẹ
đang được nhiều nước trên thế giới sử dụng.
Đối với tàu hộ vệ, nhất là các loại cỡ vừa và nhỏ đang
được nhiều nước trong khu vực quan tâm, chúng có một số tính năng khá hoàn hảo,
như: tự động hóa cao, biên chế thuyền viên ít, chi phí chế tạo và bảo đảm kỹ
thuật khi sử dụng tương đối thấp. Không những thế, với sự đột phá về khoa học -
công nghệ quân sự và nhu cầu tác chiến, các tàu hộ vệ trong tương lai sẽ tích hợp
nhiều tính năng hiện đại, như: tàng hình, số hóa, cơ động và tính đa nhiệm,
v.v. Đây sẽ là lực lượng tàu mặt nước chiếm tỉ trọng nhiều nhất trong nhu cầu
mua sắm, trang bị của hải quân thế giới nói chung, các nước trong khu vực nói
riêng, nhất là đối với các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tàu mặt nước chủ lực của các quốc gia thuộc ASEAN hiện
nay là các loại tàu hộ vệ hạng nhẹ, gồm: tàu hộ vệ tên lửa, tàu fri-gát (khinh
hạm), tàu tên lửa cao tốc, tàu tuần tiễu xa bờ. Các tàu nhóm này chiếm tỷ lệ
khá lớn trong tổng số tàu mặt nước của các nước ASEAN. Ví dụ, tại Xin-ga-po, hiện
có 17 tàu hộ vệ trên tổng số 50 tàu mặt nước. Tương tự, các nước In-đô-nê-xi-a
và Ma-lai-xi-a có số tàu hộ vệ lần lượt là 36/48 tàu và 47/52 tàu, v.v. Hải
quân các nước ASEAN có nhiệm vụ cốt lõi là phòng vệ, nên vùng hoạt động chủ yếu
nằm trong khu vực chủ quyền lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
mỗi nước. Vì thế, hầu hết các loại tàu hộ vệ hạng nhẹ có thể đáp ứng yêu cầu
phòng thủ với tầm hoạt động trên, dưới 1.000 hải lý. Ngoài ra, các tàu hộ vệ hạng
nhẹ có khả năng di chuyển nhanh, cập và xuất cảng đơn giản, không đòi hỏi điều
kiện hoạt động khắt khe như các tàu chiến lớn. Nhiều quốc gia ASEAN có bờ biển
trải dài, nên tàu loại này dễ dàng triển khai tác chiến ngay khu vực ven bờ.
Tuy nhiên, trong bối cảnh an ninh trên Biển Đông diễn
biến phức tạp; trong khi đó, nhu cầu bảo vệ an ninh, lợi ích quốc gia trên các
vùng biển ngày càng lớn, một số nước ASEAN đang đẩy nhanh chương trình đầu tư,
trang bị tàu hộ vệ cho hải quân. Với học thuyết địa chính trị quốc gia mang tên
“Đòn bẩy toàn cầu”, In-đô-nê-xi-a đang đẩy mạnh chương trình đầu tư, trang bị
tàu hộ vệ cho hải quân. Hiện tại, hải quân nước này đã ký hợp đồng mua 06 tàu hộ
vệ tên lửa có điều khiển Đa-men Síc-ma 10514, sẽ được đóng tại Nhà máy đóng tàu
PT PAL (Bơ-sê-rô), thành phố Su-ra-bay-a, In-đô-nê-xi-a; chiếc đầu tiên sẽ được
tiếp nhận trong năm 2017.
Đối với Ma-lai-xi-a, để tăng cường trang bị cho hải
quân, Bộ Quốc phòng nước này đã công bố kế hoạch giảm số kiểu loại tàu từ 15 xuống
còn 05 lớp tàu, gồm: tàu tác chiến ven bờ, tàu tuần tiễu thế hệ mới, tàu thực
hiện các nhiệm vụ ven bờ, tàu chi viện đa nhiệm và tàu ngầm. Mặc dù số lượng lớp
tàu giảm xuống, nhưng số lượng tàu của mỗi lớp sẽ tăng lên. Chính phủ
Ma-lai-xi-a đã ký hợp đồng trị giá 2,2 tỷ USD với Nhà máy đóng tàu hải quân
Bâu-tít để đóng 06 tàu tác chiến ven biển. Tàu có lượng choán nước lên đến
3.000 tấn, dựa trên lớp tàu Gâu-win 2.500, do nhà đóng tàu DCNS của Pháp thiết
kế.
Như vậy, việc tăng cường sức mạnh hải quân nói chung,
phát triển lực lượng tàu mặt nước của các nước châu Á nói riêng đang có xu hướng
gia tăng. Điều này chủ yếu xuất phát từ nhu cầu nhằm đối phó với những biến động
mau lẹ, phức tạp của tình hình khu vực, nhất là trên các vùng biển, đảo của mỗi
quốc gia. Đó là sự tận dụng trình độ khoa học công nghệ cao vào hiện đại hóa lực
lượng vũ trang để bảo đảm sự ổn định an ninh, chính trị của mỗi nước. Tuy
nhiên, nếu quá đề cao vấn đề này, có thể tạo ra cuộc chạy đua vũ trang, kéo
theo những hệ lụy khó lường, đe dọa sự ổn định của khu vực. Vì thế, dư luận cho
rằng, việc phát triển các phương tiện tàu mặt nước hải quân là nhu cầu của mỗi
quốc gia, nhưng phải trong khuôn khổ luật pháp và thông lệ quốc tế, nhằm tạo
môi trường hòa bình, ổn định và phát triển cho khu vực và quốc tế.
Đại tá ĐẶNG ĐỒNG TIẾN, Tổng cục Kỹ thuật
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét