Home » hoptacdoingoai
Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017
Cần xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn
Thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định vai trò quan
trọng của công tác đối ngoại - “mặt trận ngoại giao” trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc trước đây cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn
quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ
quan hệ đã xác lập vào thực chất”1. Đây là quan điểm cơ bản, nhất quán, thể hiện
sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập và phát triển; đồng thời, đó cũng
là tư tưởng, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo chiến lược để toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại, mà trước hết là xử lý
đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn trong tình hình mới.
Tình hình thế giới hiện nay đang chuyển từ trật tự đơn
cực sang trật tự mới theo xu hướng đa cực, với sự xuất hiện của nhiều trung tâm
quyền lực quốc tế; các nước lớn có sự điều chỉnh về chiến lược, vừa hợp tác, thỏa
hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện
thế giới và các khu vực. Trong quá trình ấy và trên từng khu vực, do nhu cầu
khách quan của quan hệ đan xen lợi ích, không chỉ các nước lớn hoặc các nước nhỏ
thiết lập quan hệ với nhau, mà giữa nước nhỏ với nước lớn cũng tồn tại sự ràng
buộc, phụ thuộc lẫn nhau, tạo sự quan hệ phong phú, đa tầng nấc, quy mô và cấp
độ khác nhau. Đó là mối quan hệ hai chiều, được xác lập và quy định bởi nhân tố
khách quan, không có việc chỉ nước nhỏ mới cần hoặc phụ thuộc vào nước lớn, còn
nước lớn thì không; trái lại, nước lớn cũng cần hoặc phụ thuộc vào nước nhỏ. Việt
Nam là quốc gia có vị trí địa - chiến lược quan trọng và có tiềm năng phát triển
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương nên luôn là tâm điểm chú ý của các nước
lớn về nhiều phương diện, trong đó có quốc phòng, an ninh với cả khía cạnh tích
cực và tiêu cực. Điều đó đặt ra cho công tác đối ngoại nói chung, việc xử lý mối
quan hệ với các nước lớn nói riêng những yêu cầu mới rất cao. Trong bối cảnh
đó, để xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn - yếu tố quan trọng giữ vững
độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong quá trình tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế, hơn bao giờ hết đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tăng cường
sự đoàn kết, thống nhất; nhận thức sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc đường
lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó, triển khai đồng bộ các giải
pháp, tập trung thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, nắm vững quan điểm, đường
lối đối ngoại của Đảng nhằm thống nhất nhận thức và hành động, bảo đảm xử lý
đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn trong tình hình mới
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống
nhất nhận thức, tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đối
với công tác đối ngoại nói chung, xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn
nói riêng để bảo vệ độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh nước
ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Chúng ta cần thấy rằng, việc hoạch định
đường lối, chủ trương có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng việc tổ chức thực hiện
đường lối đó còn quan trọng hơn. Đường lối của Đảng có đúng đắn, sáng tạo đến mấy,
nhưng nếu không được tuyên truyền, quán triệt và cụ thể hóa trong thực tiễn đời
sống xã hội thì sẽ ít có ý nghĩa, tác dụng. Vì thế, phải coi trọng việc tuyên
truyền, quán triệt để cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững đường lối, quan điểm
của Đảng. Trọng tâm là quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị
quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về hội nhập quốc tế” và Nghị quyết 806-NQ/QUTW,
ngày 31-12-2013 của Quân ủy Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc
phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trong đó, cần quán triệt sâu sắc chủ
trương chiến lược tại Đại hội XII của Đảng là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan
hệ với các đối tác, nhất là với các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát
triển và an ninh của đất nước, tạo cơ sở cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ
chức thực hiện, đảm bảo đúng định hướng, đạt hiệu quả.
Các cấp, ngành, địa phương cần nắm vững tư tưởng, nội
dung cơ bản của hội nhập quốc tế, trong đó có nội dung quan hệ hợp tác với các
nước lớn để nâng cao hiệu quả quán triệt, tuyên truyền. Theo đó, cùng với tuân
thủ nguyên tắc bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc theo đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương
hóa, trong quan hệ với các nước lớn cần thấy rõ cả cơ hội và thách thức đan
xen. Song vấn đề quan trọng là, cơ hội và thách thức đó bao giờ cũng có mối
quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn nhau; trong đó, cơ hội có thể trở
thành thách thức nếu không được tận dụng kịp thời và ngược lại, thách thức có
thể biến thành cơ hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành công. Trên cơ sở nắm
vững tư tưởng, nội dung đó, cần tổ chức nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền
đa dạng, phong phú và hiệu quả. Quá trình thực hiện tuyên truyền, quán triệt phải
bảo đảm tính toàn diện, thuyết phục, chân thực, khách quan và điều quan trọng
là phải thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, không
để xảy ra sơ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, nhất là chống phá
mối quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước khác. Khi tuyên truyền về thời
cơ, thuận lợi cần phải đề cập cả khó khăn, thách thức; tuyên truyền về thành tựu
đạt được cũng phải nói cả yếu kém, khuyết điểm và những gì chưa làm được. Khi đề
cập đến thời cơ, thuận lợi phải tỉnh táo, tránh gây tâm lý chủ quan và khi nói
về khó khăn, thách thức nhưng không gây sự bi quan, lo lắng trong dư luận xã hội.
Đó là phương thức tuyên truyền tốt nhất, phù hợp và hiệu quả nhất.
Thực tiễn cho thấy, tuyên truyền về công tác đối ngoại,
trong đó có mối quan hệ với các nước lớn là rất quan trọng, nhưng cũng rất nhạy
cảm. Vì thế, cần phải bám sát sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương, xây dựng
kế hoạch, nội dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền chặt chẽ, không để sơ hở.
Thêm nữa, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, kết hợp cả thông
tin, tuyên truyền trong nước với thông tin đối ngoại, thông tin tuyên truyền của
các tổ chức của ta và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Cùng với đó, phải
đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân, nhất
là cán bộ chủ chốt các cấp, ngành, địa phương nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức và trách nhiệm đối với quốc phòng, an ninh, trong đó có nội dung về
phát huy tính độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia khi ứng xử với các nước lớn
trong quan hệ đối ngoại.
Hai là, thường xuyên nắm chắc tình hình có liên quan đến
độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia, nhất là động thái của các nước lớn để có
đối sách phù hợp trong quá trình quan hệ hợp tác
Để xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn, điều
quan trọng trước hết là phải nắm chắc tình hình, nhận thức và đánh giá đúng đối
tác, đối tượng có liên quan trực tiếp đến độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia
cả trước mắt và lâu dài. Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta đã khẳng định: những ai tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng
có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động
chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều
là đối tượng của chúng ta. Đây là quan điểm bao trùm, xuyên suốt của Đảng về đối
tác, đối tượng. Các cấp, ngành, lực lượng cần quán triệt, nắm vững, vận dụng
linh hoạt, hiệu quả trong quá trình hội nhập, hợp tác, phát triển, nhất là với
các nước lớn. Trong tình hình phức tạp hiện nay, nghiên cứu sâu Nghị quyết và từ
kinh nghiệm thực tiễn chúng ta phải thấy rõ tính chất đan xen, sự chuyển hóa
linh hoạt giữa đối tác, đối tượng. Cùng một chủ thể nước lớn, có thể ở lĩnh vực
này, thời điểm này là đối tác, nhưng trong lĩnh vực khác, thời điểm khác lại trở
thành đối tượng. Nói cách khác, đối tác, đối tượng luôn vận động chuyển hóa lẫn
nhau tùy theo hoàn cảnh, điều kiện cụ thể nhất định. Do đó, muốn xử lý đúng đắn
mối quan hệ với các nước lớn, trước hết phải thấu suốt vấn đề cơ bản nêu trên,
nhằm chủ động trong mọi tình huống, triệt để tận dụng thời cơ, hóa giải thách
thức.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu và dự báo tình
hình liên quan đến từng nước lớn, nhóm nước lớn, nhất là những diễn biến và động
thái mới có lợi hoặc bất lợi đối với sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc của nhân dân ta. Từ đó, xác định bản chất,
nguyên nhân nảy sinh, dự báo hướng phát triển; phân tích tác động của nó tới
quan hệ quốc tế cũng như đối với quốc phòng - an ninh của đất nước, v.v. Trên
cơ sở đó, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, quyết sách, phương thức ứng
xử đúng đắn, phù hợp trong quan hệ đối ngoại. Trong đời sống quốc tế hiện nay,
quan hệ cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn diễn ra gay gắt, tác động mạnh
mẽ đến khu vực và thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì thế, quá trình nghiên cứu,
dự báo tình hình phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, phải đặt các
nước lớn là một tâm điểm của công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược.
Ba là, vận dụng phương thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh
một cách linh hoạt, có đối sách phù hợp với từng nước lớn, quan hệ với nước này
không làm ảnh hưởng tới quan hệ với nước khác
Phải khẳng định rằng, trong mọi giai đoạn lịch sử, các
nước lớn luôn có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Do đó, đẩy mạnh quan
hệ hợp tác với các nước lớn là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, quan hệ với các nước lớn bao giờ cũng tồn tại cả thời cơ và thách thức,
thậm chí cả sự áp đặt, lệ thuộc nếu chúng ta không tỉnh táo, khôn khéo, dẫn tới
xử lý thiếu đúng đắn, phù hợp, sẽ dễ rơi vào thế bất lợi. Mặt khác, cần thấy rằng,
trong xu thế toàn cầu hóa, bản thân các nước lớn, vì lợi ích riêng nên họ có
nhu cầu quan hệ với các nước khác, những nước tạm gọi là nhỏ như Việt Nam.
Nhưng, nguyên tắc quan hệ giữa các nước là bình đẳng, không tồn tại khái niệm về
nhỏ - lớn. Có những nước mà trong con mắt của ai đó là nhỏ, nhưng lại có vị thế
địa - chiến lược quan trọng. Rõ ràng nước đó nhỏ mà không nhỏ. Ngược lại, có những
nước được coi là lớn, rộng về địa lý, nhiều về dân số, nhưng vị thế, vai trò
trong cộng đồng quốc tế lại “tầm tầm”, rõ ràng nước đó lớn mà không lớn. Vì thế,
trong quan hệ với các nước lớn, chúng ta cần phải tự tin, tránh tự ti “nước nhỏ”,
từ đó tích cực, chủ động, vận dụng linh hoạt phương thức vừa hợp tác, vừa đấu
tranh với những đối sách phù hợp. Đồng thời, luôn xác định đây là tư tưởng chỉ
đạo, phương châm hành động trong quá trình xử lý mối quan hệ với các nước lớn,
nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước, gắn với giữ vững độc lập, tự chủ và
chủ quyền quốc gia trong bối cảnh hội nhập. Để thực hiện tốt phương châm này,
trước hết, chúng ta cần quán triệt và kiên quyết thực hiện chính sách đối ngoại
của Đảng, giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, không lệ thuộc trong quan hệ với
các nước, trong đó có các nước lớn. Đồng thời, chủ động đẩy mạnh hợp tác theo
hướng thiện chí, minh bạch, tăng cường xây dựng lòng tin với các đối tác. Trong
đó, cần khéo léo không để các nước hiểu lầm Việt Nam “bắt tay” với nước này, chống
nước kia, gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hiện nay, quan hệ giữa nước ta với các nước lớn nói
chung đang phát triển tốt đẹp, điều đó thiết thực góp phần vào công cuộc đổi mới,
xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta chủ quan hoặc tự tin thái
quá, dẫn tới sao nhãng những vấn đề nhạy cảm khác có thể gây bất lợi đối với nước
ta. Nói cách khác, chúng ta cần phải rất tỉnh táo, hiểu đúng mình và đối tác,
thấy rõ mặt tích cực và tiêu cực của mối quan hệ với từng nước lớn; đặc biệt,
phải dự liệu đầy đủ mọi việc, chủ động trong mọi tình huống, nhất là khi mối
quan hệ “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Do đó, một lần nữa cần khẳng định rằng,
phải thấu suốt quan điểm về đối tác, đối tượng của Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa
hợp tác và đấu tranh trên từng vấn đề, sự việc cụ thể theo phương châm: tăng cường
điểm đồng, giảm thiểu bất đồng; có đối sách linh hoạt, mềm dẻo để tránh đối đầu,
căng thẳng hoặc lệ thuộc, trên cơ sở nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc.
Tiếp tục chính sách “cân bằng nước lớn” và xem đó là lựa
chọn tất yếu trong duy trì quan hệ với các cường quốc. Tuy nhiên, trong bối cảnh
tình hình quốc tế, khu vực ngày càng diễn biến phức tạp, chính sách này dù là lựa
chọn hàng đầu cũng cần có cách tiếp cận linh hoạt để đạt được lợi ích tối đa.
Theo đó, cùng với chủ trương phát triển quan hệ ở tầm đối tác toàn diện, đối
tác chiến lược toàn diện với từng nước lớn, chúng ta cần đẩy mạnh quan hệ với
các nước lớn khác và các nước đang phát triển với những cơ chế hợp tác, đối thoại,
trao đổi phù hợp, tạo thế đan xen lợi ích với từng đối tác và với các nước lớn.
Qua đó, tăng cường hợp tác và đấu tranh; trong đó, có thể tranh thủ quan hệ với
nước lớn này để tác động quan hệ với nước lớn khác trong xử lý các tình huống
phức tạp cụ thể, tránh trở thành “con bài” để các nước lớn mặc cả lợi ích trong
quan hệ quốc tế. Đây là cách ứng xử rất linh hoạt, sáng tạo, bảo đảm giữ vững độc
lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia để thực hiện mục tiêu đối ngoại bất biến, đó
là lợi ích quốc gia - dân tộc.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng thực lực quốc
gia vững mạnh, làm cơ sở xử lý mối quan hệ với các nước lớn, nâng cao vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
Trong quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ với các nước
lớn nói riêng, cùng với xác định đường lối, chính sách và phương thức đối ngoại
thì vấn đề thực lực của quốc gia là nội dung rất quan trọng, nhằm khẳng định vị
thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Vì thế, chăm lo xây dựng thực lực
của đất nước ngày càng vững mạnh đã, đang trở thành giải pháp quan trọng không
chỉ tạo điều kiện thuận lợi để nước ta tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, mà
còn trực tiếp góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và
các nước lớn. Đó cũng chính là quan điểm được Đại hội XII của Đảng xác định; đó
là: “đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và
thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước”2,
đảm bảo cho nước ta là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế.
Thời gian qua, nhất là sau hơn 30 năm đổi mới đất nước,
dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của Đảng, chúng ta đạt được nhiều thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử; thực lực của quốc gia ngày càng được tăng cường. Từ một quốc
gia bị phong tỏa, cấm vận và một nền kinh tế kém phát triển, “đóng cửa”, Việt
Nam đã không ngừng phát triển và vươn mạnh ra thế giới. Đến nay, chúng ta đã có
quan hệ ngoại giao với trên 170 nước, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với
221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Phúc lợi xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Năm 2015, Việt Nam là một trong những quốc gia
về đích trước 10 năm với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu
Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Hơn thế, Việt Nam còn tham gia và là thành
viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như: thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO - năm 2007); Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc (giai đoạn 2008 - 2009); Chủ tịch Hội nghị Giải trừ quân bị
của Liên hợp quốc (năm 2009), v.v. Đó là cơ sở, nền tảng rất quan trọng để khẳng
định vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ với các nước
lớn nói riêng.
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an
ninh với các nước lớn
Nhìn chung, các nước lớn có lợi thế trong quan hệ quốc
tế trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về chính trị, quân sự, tiềm lực khoa học
công - nghệ và đều là các trung tâm kinh tế thế giới. Vì thế, đẩy mạnh hợp tác
quốc tế về quốc phòng, an ninh với các nước lớn là vấn đề cần thiết, quan trọng;
một mặt, nhằm tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin trong quan hệ quốc tế,
góp phần duy trì môi trường hòa bình, hợp tác cùng phát triển, nâng cao vị thế,
uy tín đất nước; mặt khác, tranh thủ mọi nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm từ các
nước này để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng,
an ninh của đất nước. Đồng thời, đó còn là một định hướng chiến lược, là kế
sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.
Thấu suốt điều đó, những năm qua, chúng ta đã thúc đẩy
và mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng, an ninh với các quốc gia, trong đó có
các nước lớn; đã chọn đúng khâu đột phá, với bước đi thích hợp, từng bước đưa
công tác này đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đến nay, chúng ta đã có
quan hệ quốc phòng ở các cấp độ khác nhau với hơn 80 nước, trong đó có 5 nước lớn
là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, qua đó tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, năm
2010, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN
mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất, với sự tham gia của một số nước lớn đã nâng cao vị
thế, uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, nhất
là trong con mắt của các cường quốc. Đó cũng là một trong những tiền đề quan trọng
cùng với các hoạt động đối ngoại khác để chúng ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp
tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn. Theo đó, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an
- lực lượng nòng cốt trong tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về đối ngoại quốc
phòng, an ninh và tổ chức thực hiện cần tiếp tục nâng cao chất lượng nghiên cứu
chiến lược, đánh giá dự báo đúng tình hình các nước lớn, trên cơ sở đó, chủ động
hoạch định chiến lược tổng thể cùng các giải pháp đồng bộ để chỉ đạo thống nhất
các hoạt động hợp tác trên lĩnh vực quan trọng này. Trong đó, cần tập trung
nghiên cứu xây dựng đề án quan hệ quốc phòng, an ninh bền vững với đối tác là
các nước lớn, có nền công nghiệp quốc phòng phát triển, mà trọng tâm là hợp tác
trên các lĩnh vực: nghiên cứu chiến lược; hiện đại hóa Quân đội nhân dân, Công
an nhân dân; tăng cường khả năng phòng thủ đất nước và trong đối phó với các
thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống mang tính toàn cầu. Đồng thời,
cần tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn trong quá trình triển khai đề án đưa
người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế, trước hết là các cơ quan
thuộc hệ thống Liên hợp quốc.
Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh song
phương với các nước lớn một cách toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, nhất
là triển khai hợp tác một cách thực chất, hiệu quả các thỏa thuận đã ký với từng
nước lớn. Riêng lĩnh vực quốc phòng, quá trình hợp tác, cần kết hợp chặt chẽ
các hoạt động thương mại quân sự, kinh tế quân sự, kỹ thuật quân sự và hợp tác
công nghiệp quốc phòng với các hoạt động hợp tác quốc phòng khác thành một thể
thống nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu hội nhập và đối ngoại đã đề ra.
Trong đó, việc hợp tác mua sắm vũ khí, trang bị mới, hiện đại với các nước lớn
là cần thiết, nhưng phải thận trọng và có tầm nhìn chiến lược, bảo đảm dự liệu
đầy đủ các tình huống, kịch bản có thể xảy ra, nhất là trong hợp tác chuyển
giao công nghệ, quy trình quản lý, sản xuất, bảo dưỡng,… để không rơi vào thế bị
động, bất ngờ và lệ thuộc vào đối tác. Đặc biệt, phải tỉnh táo, cân nhắc mọi vấn
đề, mọi khía cạnh và đặt mối quan hệ hợp tác đó trong bối cảnh đất nước có biến
động, xảy ra chiến tranh. Cùng với đó, cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ,
hiệu quả giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành Trung
ương và các địa phương trong hoạt động đối ngoại về các vấn đề, lĩnh vực có
liên quan nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong hợp tác quốc phòng, an ninh với các
nước lớn.
Quan hệ với các nước lớn là định hướng lớn, phương
châm, tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, được xác định rõ tại
Nghị quyết Đại hội XII, Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI). Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân cần tiếp tục quán triệt, nắm vững, thực hiện có hiệu quả quan điểm
trên của Đảng. Đặc biệt, xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn sẽ là một trong
những yếu tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia trong
tình hình mới.
Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA, Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét