Home » thoisu
Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018
Hiểu đúng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo là
một trong những vấn đề được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm kích động,
gây rối, phá hoại, làm mất ổn định chính trị - xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, chống Đảng và chế độ ta. Hiểu đúng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo
là cơ sở để nhận diện và đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn đó.
Tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người và được khẳng định
trong các văn bản chính trị quan trọng của Liên hợp quốc. Khoản 3, Điều 1 Hiến
chương năm 1945 ghi nhận: “Tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và tự do cơ
bản của mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 quy định: “Mọi người đều có quyền tự
do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn
giáo của mình và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức
như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức
cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư” (Điều 18). Đồng thời
khẳng định: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản
Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt, đối xử nào về chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo” (Điều 2). Song, quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo không phải là quyền tuyệt đối, mà có thể bị giới hạn: “Khi hưởng thụ các
quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định,
nhằm bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của
người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự
công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ” (Khoản 2, Điều 29). Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Mọi người đều
có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do
có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn và tự do bày tỏ tín
ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, một
cách công khai hoặc kín đáo dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực
hành và truyền giảng” (Khoản 1, Điều 18). Trong đó, chỉ rõ: 1. Không ai bị ép
buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc
tín ngưỡng của họ (Khoản 2, Điều 18); 2. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín
ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết
để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo
vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác (Khoản 3, Điều 18); 3. Nghiêm cấm mọi
hành động cổ vũ hằn thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo dẫn đến kích động phân biệt
đối xử và bạo lực (Khoản 2, Điều 20).
Như vậy, các
văn bản trên đều phân định rõ ràng giữa quyền tự do tôn giáo với tự do thực
hành tôn giáo, cho phép hạn chế quyền tự do thực hành tôn giáo theo pháp luật
khi cần thiết nhằm bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe, đạo đức xã hội hoặc để bảo
vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Quyền lựa chọn tôn giáo là tuyệt đối,
còn quyền thực hành tôn giáo không phải là tuyệt đối.
Việt Nam là
quốc gia đa dân tộc, tôn giáo. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền
tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay
từ ngày mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL, ngày
14-6-1955, khẳng định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của
nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền
không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo
pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín
ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Kế thừa,
phát triển quan điểm chỉ đạo của Người, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn
thiện quan điểm, chính sách, pháp luật để nhân dân được thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của mình trên cơ sở pháp luật. Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã nhấn mạnh: 1. Thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn
giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. 2. Nghiêm
cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Trên cơ sở nội luật hóa pháp
luật quốc tế và thể chế các quan điểm, chủ trương của Đảng về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng
trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo”(Điều 24); “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14); nghiêm cấm
“xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi
phạm pháp luật”. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội thông qua, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01-01-2018 cũng khẳng định: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử,
kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người
khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo” và nghiêm cấm: “Hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng - an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội, xâm phạm thân thể, sức khỏe,
tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người
theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những
người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau…” (Điều 5).
Với những chủ
trương, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng, Nhà nước về tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, những năm qua, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Chưa bao giờ đời sống tôn giáo ở
nước ta lại phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Các tôn giáo chung sống gắn bó,
hòa hợp, “tốt đời, đẹp đạo”, phúc âm trong lòng dân tộc. Các tín đồ, chức sắc
tôn giáo yên tâm, tin tưởng vào đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, tích
cực tham gia các phong trào “ích nước, lợi dân”, phát triển kinh tế, xã hội,
xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần to lớn trong công cuộc xây
dựng, đổi mới đất nước. Theo thống kê sơ bộ, tính đến năm 2017, cả nước có 41 tổ
chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo khác nhau (với hơn 25 triệu tín đồ, 53 nghìn chức
sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ sở thờ tự) được Nhà nước công nhận và
cho phép hoạt động. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mô trong cả nước.
Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo được chú trọng, đẩy mạnh.
Chính phủ đã tạo điều kiện cho các tôn giáo được mở rộng quan hệ quốc tế rộng
rãi; nhiều đoàn tôn giáo quốc tế đến thăm, làm việc và nhiều đoàn tôn giáo
trong nước đi thăm, làm việc, học tập ở nước ngoài. Việc đăng ký điểm nhóm Tin
lành đã được Chính phủ quan tâm phê duyệt. Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên và
Bình Phước có khoảng 500 nghìn tín đồ thuộc 31 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành,
trong đó có hơn 400 nghìn người đang sinh hoạt tại 240 chi hội và 1.300 điểm
nhóm đã đăng ký với chính quyền địa phương, v.v. Hệ thống pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo được sửa đổi, bổ sung, ngày càng hoàn thiện, mà điểm nhấn là năm 2017,
Quốc hội đã thông qua Luật Tín ngưỡng tôn giáo và Luật này có hiệu lực từ ngày
01-01-2018, là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của
người dân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Việc Việt Nam trúng
cử là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 với số
phiếu cao nhất; đồng thời, bảo vệ thành công các Phiên Cơ chế rà soát định kỳ
phổ quát chu kỳ II là lời khẳng định mạnh mẽ nhất đối với nỗ lực, thành tựu của
Việt Nam nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Thực tế là vậy!
Thế nhưng các thế lực thù địch không những không thừa nhận, mà còn xuyên tạc,
kích động, chống phá và đánh tráo, đồng nhất khái niệm “thuyết nhân quyền tự
nhiên về quyền tự do tuyệt đối” thành “quyền tuyệt đối về tự do tôn giáo”.
Chúng cho rằng, quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
là quyền bẩm sinh, không phụ thuộc vào văn hóa hay ý chí giai cấp, cộng đồng
hay nhà nước; không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ
các quyền bẩm sinh đó. Với luận điệu trên, chúng ra sức xuyên tạc rằng, Việt
Nam không có tự do tôn giáo; Nhà nước Việt Nam hạn chế, đàn áp tôn giáo, quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo bị vi phạm, bóp nghẹt. Chúng tìm mọi cách tuyên truyền
làm cho nhiều người ngộ nhận rằng, tất cả các hoạt động tôn giáo đều được tự
do, không chịu sự quản lý của pháp luật để cổ súy cho hành vi lợi dụng tôn giáo
vi phạm pháp luật nước ta. Bởi thế, một số xứ đạo mới tự lập ra cái gọi là “Ban
an ninh”, “Ban trật tự” với danh nghĩa đảm bảo trật tự các buổi lễ; kích động
giáo dân bất tuân lệnh chính quyền, coi thường kỷ cương phép nước, tẩy chay bầu
cử, o ép đảng viên là người có đạo, đòi lại đất, lấn chiếm, vận động hiến nhượng
đất, cơi nới nơi thờ tự, v.v. Khi chính quyền lập lại trật tự, kỷ cương, xử lý
tín đồ vi phạm pháp luật thì họ lại lớn tiếng xuyên tạc Việt Nam đàn áp tôn giáo,
vi phạm dân chủ, nhân quyền. Lợi dụng điều đó, trong Báo cáo về tình hình tự do
tôn giáo, tín ngưỡng tại khu vực ASEAN năm 2017 của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc
tế Mỹ (USCIRF) lại tiếp tục vu cáo Việt Nam “hạn chế tự do tôn giáo”, “kiểm
soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và
duy trì đoàn kết dân tộc” (!).
Cần thấy rằng,
tự do tôn giáo và tự do thể hiện tôn giáo là hai vấn đề có nội hàm hoàn toàn
khác nhau. Cũng như mọi hoạt động bình thường khác của xã hội, tự do tín ngưỡng,
tôn giáo đúng nghĩa luôn được xây dựng trên cơ sở thượng tôn pháp luật, tôn trọng,
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người khác, của xã hội. Sẽ là “phản tự
do” nếu lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đi xâm hại quyền và lợi ích
chính đáng của người khác, làm đảo lộn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
của đất nước. Các tôn giáo ở Việt Nam phát triển trên cơ sở tôn trọng luật pháp
Nhà nước; không tôn giáo nào được phép đứng ngoài hoặc đứng trên lợi ích quốc
gia, dân tộc. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm và xử lý nghiêm bất kỳ ai lợi dụng
tôn giáo để xâm phạm lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Mỗi tín đồ tôn
giáo đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam, khi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo đều phải tôn trọng và chấp hành pháp luật Việt Nam. Điều này hoàn toàn
tương thích với luật pháp quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét