Home » thoisu
Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2018
Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta
xác định: trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải đặc biệt
chú trọng nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế. Quán triệt tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, cụ
thể hóa, đề ra các nguyên tắc, phương châm để nhận thức đúng và xử lý tốt mối
quan hệ này, nhằm bảo đảm lợi ích tối cao của đất nước.
1. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế
Đây là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng
sâu đậm trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập với thế giới.
Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất và nội hàm của
nó được thể hiện trên những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề
để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Điều đó thể hiện: Một là, độc lập, tự
chủ không phải là biệt lập với thế giới, đứng ngoài hội nhập quốc tế. Độc lập
là quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc. Tự chủ là năng lực thực hiện quyền tự
quyết ấy trên thực tế. Độc lập, tự chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Đó là khát vọng
của nhân dân ta, trải qua bao đấu tranh gian khổ mới giành được, để trở thành một
dân tộc, một quốc gia có tên trên bản đồ thế giới. Song, trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, thì hầu hết các quốc gia, dân tộc đều
tích cực tham gia vào quá trình này, nhằm thu hút, tạo nguồn lực để xây dựng,
phát triển đất nước. Đó là mặt tích cực của hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, tác động
tiêu cực của nó là gia tăng sự phụ thuộc, thậm chí không giữ được độc lập, tự
chủ, nhất là đối với các nước nhỏ, tiềm lực yếu so với các nước lớn. Do đó, giữ
vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự áp
đặt, chi phối, mà đòi hỏi phải nêu cao và chủ động trong hội nhập quốc tế. Hai
là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội
nhập quốc tế. Thực tiễn đổi mới cho thấy, nhờ giữ vững độc lập, tự chủ mà chúng
ta đã tự quyết định được lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối
tác, lĩnh vực phát triển; phát huy được những lợi thế, hạn chế những thách thức,
tác động tiêu cực trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế. Từ hội nhập kinh tế,
nước ta đã từng bước hội nhập toàn diện vào khu vực và quốc tế, quan hệ đối ngoại
được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, góp phần tạo ra thế và lực
mới của đất nước. Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới phân tích, xử lý thông tin
một cách đúng đắn để có những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự
thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và khu vực, v.v. Từ những cơ sở đó, để
tham gia hội nhập quốc tế, trước hết mỗi quốc gia, dân tộc phải là một “chủ thể”
- đó chính là quyền độc lập, tự chủ của mình. Không có độc lập, tự chủ thì
không thể nói tới hội nhập, chứ chưa nói tới chủ động, tích cực. Vì vậy, độc lập,
tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, đến lượt mình, hội nhập quốc tế góp phần tăng
cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Điều đó được thể hiện: Một
là, thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua cho
thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, thông qua
chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chúng ta đã phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế Việt Nam, tạo được sự ủng hộ
rộng rãi của cộng đồng quốc tế trong giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Do đó, chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế vừa là một giải pháp quan trọng, vừa là một động lực để giữ
vững độc lập, tự chủ. Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra tiền đề cho phát triển
kinh tế, xã hội – yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Trước hết, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ,
sâu, rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới và khu vực, như: Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB), v.v. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho huy động
các nguồn lực bên ngoài, như: vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản lý, v.v.
Điều quan trọng nhất là, chúng ta có thể tận dụng cơ hội, đi trước, đón đầu, tiếp
nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến; đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao, góp phần rút ngắn, thực hiện thành công quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
tận dụng cơ hội của quá trình toàn cầu hóa, chúng ta có thể mở rộng thị trường,
với nhiều hình thức đầu tư, hợp tác sản xuất; phát huy mặt mạnh và lợi thế so
sánh các sản phẩm trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tăng thu nhập cho
người lao động, v.v. Đúng như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã khẳng định trong bài
phát biểu tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Đa-vốt, Thụy Sỹ (năm 1990): “... hội
nhập và hợp tác kinh tế quốc tế như là một nhân tố quyết định cho việc đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa đất nước”1. Ba là, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra sự phối hợp chặt chẽ, xác định cơ chế thống
nhất, hiệu quả, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề lớn, mang tính toàn cầu,
đã, đang đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của từng quốc gia, khu vực
và cả thế giới, như: khủng bố, biến đổi khí hậu, thiên tai, v.v. Điều đó cho thấy,
tất cả những thuận lợi này cũng như các nguồn lực từ bên ngoài chỉ có được
thông qua hội nhập, hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao tiềm lực của đất nước để
giữ vững độc lập, tự chủ. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, chúng ta phải nâng
cao nội lực, có đủ khả năng tiếp nhận, biến cơ hội thành hiện thực; đồng thời,
có chủ trương, giải pháp phù hợp để khắc phục những tác động tiêu cực của quá
trình mở cửa, hội nhập, nhằm vừa giữ vững độc lập, tự chủ, vừa bảo đảm cho đất
nước phát triển.
2. Xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế
Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Triển khai mạnh mẽ định
hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế
là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở
phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh
tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội
nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập
là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi
tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”2. Theo đó, trong
quá trình thực hiện, chúng ta phải quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối đối
ngoại của Đảng, tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp; song, trước hết cần
tránh cực đoan trong cả nhận thức và hành động, như: quan điểm cho rằng độc lập,
tự chủ là hằng số bất biến, có nội dung không thay đổi, không thể tương dung với
hội nhập quốc tế, xem thế giới như một phức thể khó lường nên phải hết sức thận
trọng trong quan hệ; trong thời đại của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không
cần và không thể duy trì, củng cố độc lập dân tộc, tự chủ, chủ quyền quốc gia.
Cùng với đó, phải có sự nghiên cứu thấu đáo và khoa học trên mấy phương diện
sau:
Trên phương diện kinh tế, trước hết, muốn độc lập, tự
chủ, quốc gia phải có thực lực, cụ thể là có một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Đó là nền kinh tế có cơ cấu hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết;
phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất, nhập khẩu cân đối;
cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá
trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế cũng đa dạng và tránh
chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài,
mặc dù là cần thiết và quan trọng nhưng không để chiếm lĩnh vai trò chi phối nền
kinh tế quốc gia cũng như không thể được phép vào những ngành nhạy cảm có thể
gây tổn hại đến an ninh, quốc phòng của đất nước. Một nền kinh tế độc lập, tự
chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng
thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước
những biến động đó. Trong bất cứ tình huống nào, nó cũng có thể cho phép duy
trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục
tiêu an ninh, quốc phòng của đất nước.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc
lập, tự chủ về đường lối phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ,
cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức
cạnh tranh. Phát triển mạnh một số ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu
có vai trò quan trọng hàng đầu, có hiệu quả, như: công nghệ thông tin, sinh học,
vật liệu mới, luyện kim, hóa dầu, than, khoáng sản, cơ khí chế tạo, v.v. Hết sức
chú trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, an toàn năng lượng, an toàn tài
chính - tiền tệ, an toàn môi trường; bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, hiệu
quả, bền vững trong bất cứ tình huống nào, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn.
Trên phương diện xã hội, yêu cầu của một quốc gia độc
lập, tự chủ hàm chứa năng lực thực hành thuần thục hai cách thức quản trị xã hội:
chính thức (tức là bằng pháp luật và các quy định thành văn) và phi chính thức
(bằng con đường tuyên truyền, vận động, giáo dục), v.v.
Sự phát triển sâu rộng của quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế hiện nay đang tạo ra hàng loạt không gian quyền lực chung, có tính
toàn cầu, vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ quốc gia. Để xử lý, vượt
qua các thách thức, chính phủ nhiều nước trên thế giới đã chủ động cải cách.
Tuy nội dung và mô hình cải cách có khác nhau, nhưng nổi lên 3 nét chung sau
đây trong xu thế cải cách chính phủ hiện đại, mà chúng ta có thể tham khảo: Một
là, phi tập trung hóa quyền lực nhà nước, mạnh dạn phân cấp, trao quyền cho các
cơ cấu địa phương. Đây không phải là quá trình từ bỏ quyền lực trung ương, mà
là biện pháp để củng cố bản thân quyền lực ấy một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Trung ương không thay địa phương trong quản lý xã hội ở phạm vi cụ thể, mà phải
giám sát việc quản lý do chính quyền địa phương tiến hành. Nhờ quá trình này,
các quyết định trở nên sát hợp với thực tế hơn và động viên được đông hơn các tổ
chức, cá nhân vào công việc quản lý xã hội. Hai là, phát huy đầy đủ vai trò của
cơ chế thị trường trong phân bổ các nguồn lực phát triển xã hội; kết hợp tốt chức
năng điều tiết của Chính phủ với thị trường và xã hội. Ba là, phát huy rộng rãi
dân chủ trong toàn xã hội, không chỉ thể hiện sự phát triển của nền dân chủ
chính trị, mà còn phải bảo đảm mọi quyền lực là của nhân dân, dân chủ được thực
thi trong nhân dân nhằm giúp Chính phủ thực hiện sự quản lý hiện thực đối với
các mặt của đời sống xã hội.
Trên phương diện chính trị, an ninh và đối ngoại, độc
lập, tự chủ là yêu cầu có tính nguyên tắc trong quá trình hội nhập quốc tế của
nước ta. Độc lập, tự chủ về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu,
con đường phát triển đất nước; tự mình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến
lược phát triển; tự mình xác lập và duy trì thể chế chính trị, không chấp nhận
bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập, tự chủ về chính trị được thể hiện
cả trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an
ninh, v.v. Lô-gíc của tiến trình đổi mới là đổi mới kinh tế phải được đồng bộ,
hài hòa với đổi mới chính trị, cải cách hành chính, mở rộng dân chủ, cải cách lập
pháp, tư pháp. Yêu cầu đổi mới toàn diện như vậy đặt ra đòi hỏi ngày càng cấp
thiết đối với năng lực quản trị của Nhà nước và năng lực cầm quyền của Đảng tại
tất cả các cấp, các ngành, các địa phương. Đổi mới chính trị, đồng bộ với đổi mới
kinh tế, tối ưu hóa hoạt động của hệ thống chính trị, phân bổ quyền lực chính
trị hợp lý, kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả là cách tốt nhất đáp ứng các
yêu cầu và thách thức đặt ra.
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng,
được thể hiện trước hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng tạo, xuất phát từ lợi
ích tối cao của đất nước - dân tộc, không giáo điều, rập khuôn, máy móc trong
hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, trong xác định đối
tác, đối tượng và tập hợp lực lượng quốc tế. Chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực đối
ngoại vận động theo tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế. Hệ thống các quan hệ đối
ngoại rộng lớn hiện nay của Việt Nam là kết quả của một quá trình thực hiện các
bước đột phá: từ phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ với các nước
lớn, cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực,... đến thực hiện chính sách
đối ngoại rộng mở, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, là bạn với tất cả các nước,
tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực
là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng”. Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ
về đối ngoại trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là:
chính trị, xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững, quốc phòng vững
mạnh, nguồn nhân lực đối ngoại trung thành và chuyên nghiệp, quan hệ cân bằng với
các nước lớn.
Thống nhất cao về nhận thức và giải quyết hiệu quả
trong thực tiễn quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, bức thiết trong việc giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, phát triển đất nước, đóng góp
tích cực vào việc giữ gìn hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở khu vực và
trên thế giới. Chủ động nghiên cứu, dự báo chính xác mọi diễn biến của tình
hình thế giới và trong nước, chuẩn bị các nguồn lực đủ mạnh, các đối sách,
phương án hợp lý, nhất định chúng ta sẽ xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế, góp phần đưa đất nước ta thực hiện thắng lợi mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét