Home »
Thứ Tư, 28 tháng 2, 2018
Mục đích Nhật Bản can dự vào vấn đề Biển Đông (phần 2)
Quan điểm của
Nhật Bản và những biện pháp có thể thực hiện đối với Biển Đông
Bất chấp thực
tế là gần 80% nhập khẩu dầu thô của Nhật Bản, có ý nghĩa then chốt đối với sự sống
còn của nước này, đi qua Biển Đông, vùng biển đã nằm ngoài việc lập kế hoạch hoạt
động của JSDF trong nhiều thập kỷ. Nhìn chung, nhiều người Nhật Bản đã nhận thấy
thoái mái hơn trong việc kiên trì với cách diễn giải thiếu thực tế về hiến pháp
hòa bình hơn là đối mặt với khả năng rủi ro quân sự trong thế giới thực. Hơn nữa,
trong nhiều năm, sự đối đầu phi quân sự kéo dài hàng thập kỷ đối với hòn đảo
Senkaku ở biển Hoa Đông đã thu hút sự chú ý từ chính phủ, các phương tiện truyền
thông và dân thường Nhật Bản nhiều hơn so với tình hình ở Biển Đông.
Tuy nhiên,
các phương tiện truyền thông toàn cầu đưa tin về các hoạt động cải tạo đất đơn
phương của Trung Quốc ở Trường Sa đã khiến Nhật Bản tỏ rõ thái độ của mình.
Chính phủ Nhật Bản đã nhanh chóng xác định các hành động của Trung Quốc là vi
phạm UNCLOS và coi chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông là một nỗ lực nhằm
thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực. Nhật Bản cũng ủng hộ lập trường của Mỹ đối với
các hành động phiêu lưu mạo hiểm quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông và các
hoạt động thực hiện quyền tự do hàng hải của Mỹ. Bất chấp những giới hạn quân sự
của nước này, Nhật Bản có thể tiến hành một số hành động hỗ trợ sự ổn định ở Biển
Đông.
Hỗ trợ việc
tăng cường khả năng khu vực. Sự bành trướng đơn phương của Trung Quốc ở Biển
Đông đang gây ra những lo ngại nghiêm trọng và những bất đồng với các nước ven
biển, kể cả các nước không có tuyên bố chủ quyền như Singapore và Indonesia.
Tuy nhiên, nhiều lực lượng quân sự trong số các nước này hết sức hạn chế và
không theo kịp những khả năng của Trung Quốc. Bởi vậy, rõ ràng là Nhật Bản có
thể giúp cải thiện những khả năng biển của các nước này, với ưu tiên cao nhất
là xây dựng thúc đẩy năng lực hoạt động trên biển cho các quốc gia này, trong
đó tăng cường năng lực hải quân và bảo vệ bờ biển đang là ưu tiên cao nhất. Nhật
Bản đã khởi xướng, và năm 2015 đã bắt đầu thực hiện, một số chương trình xây dựng
khả năng cho các quốc gia ven biển ở Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và Việt
Nam, hai nước từ lâu đã chịu sức ép chính trị và quân sự từ Trung Quốc. Các hoạt
động bao gồm chuyển giao các tàu tuần tra phi quân sự và đào tạo nhân viên thực
thi pháp luật biển. Nội dung của các chương trình xây dựng khả năng này sẽ mở rộng
nhanh chóng cả về chất lượng và số lượng.
Thách thức
khác là sự hạn chế rất lớn về năng lực trên không – trên biển của các nước Đông
Nam Á ven biển. Một ý tưởng nhằm giúp cải thiện vấn đề này sẽ là xây dựng một mạng
lưới hoạt động chung trong khu vực nhờ đó các bên tham gia ven biển cung cấp
thông tin trên không-trên biển, Nhật Bản và Mỹ cung cấp thông tin vệ tinh và
thông tin từ bên ngoài. Tất cả các quốc gia tham gia sẽ lấy thông tin miễn phí
từ mạng lưới này. Nếu hoàn thành, đây có thể trở thành một công cụ chủ chốt nhằm
cải thiện khả năng hoạt động khu vực của
các quốc gia tham gia và có thể khuyến khích họ có những hành động hợp tác và
phối hợp chống lại hành vi gây hấn của bất kỳ quốc gia nào. Để giúp phát triển
những khả năng này, Nhật Bản và Mỹ cần phải cùng nhau hỗ trợ việc xây dựng năng
lực của các nước Đông Nam Á ven biển.
Ủng hộ chiến
lược của Mỹ và duy trì sự hiện diện của Mỹ. Điều rõ ràng là Mỹ là quốc gia duy
nhất có thể đem lại sự răn đe hiệu quả chống lại Trung Quốc, do khả năng của nước
này trong việc phá hủy cơ sở hạ tầng chủ yếu và các cơ sở quân sự trong một kịch
bản chiến tranh. Như được thảo luận ở trên, các căn cứ chính của Trung Quốc
trên Biển Đông ở Tam Á, đảo Woody (Phú Lâm) và Fiery Cross (Đá Chữ Thập) cũng
như có thể là bãi cạn Scarborough trong tương lai, có ý nghĩa chiến lược rất lớn;
tuy nhiên, chúng cũng có những khả năng dễ bị tổn thương, đặc biệt từ tên lửa
hành trình có độ chính xác cao. Do tất cả những căn cứ then chốt này đều có thể
bị tấn công từ trên biển và trên không, chúng có thể là mục tiêu của các khả
năng tấn công tầm xa từ các lực lượng của Mỹ.
Washington cần
phải gửi đi một tín hiệu rõ ràng đến Bắc Kinh rằng Mỹ không khoan dung cho các
hành động đơn phương và hiếu chiến vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế đã được thiết
lập. Điều cũng quan trọng là cần phát đi tín hiệu rằng để ngăn chặn những hành
động phiêu lưu mạo hiểm và sự khiêu khích của Trung Quốc, không chỉ ở Biển Đông
mà còn bên trong toàn bộ khu vực châu Á, Mỹ quyết tâm sử dụng khả năng quân sự
của mình khi cần thiết. Theo quan điểm của Nhật Bản, kiểu hành động này của Mỹ
sẽ có đóng góp thực sự cho sự ổn định khu vực, điều mà các nước ven biển châu Á
đã chờ đợi từ lâu.
Nhật Bản, với
tư cách là đối tác đồng minh chủ chốt của Mỹ, cần phải hỗ trợ các lực lượng Mỹ
hoạt động trong khu vực vì mục đích này. Để làm như vậy, JSDF cần phải gánh vác
trách nhiệm nhiều hơn đối với các hoạt động trên không và trên biển ở Tây Thái
Bình Dương và biển Hoa Đông. Việc gia tăng các sứ mệnh của JSDF sẽ tạo điều kiện
cho các lực lượng Mỹ có được tư thế triển khai linh hoạt hơn ở các khu vực
khác, phụ thuộc vào những đòi hỏi chiến lược của Mỹ, chứ không phải tiếp tục bị
ràng buộc với các hoạt động trong các vùng biển của Nhật Bản. Đặc biệt, những
vai trò được mở rộng đối với Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) ở
các vùng biển của Nhật Bản sẽ giảm bớt các nhiệm vụ cũ của Hải quân Mỹ và tăng
cường hơn nữa khả năng đối với các hoạt động chiến tranh chống tàu ngầm ở Biển
Đông. Tư thế tác chiến mới của JSDF cũng sẽ cải thiện sự linh hoạt của các lực
lượng Mỹ trong việc duy trì một sự hiện diện không bị gián đoạn trong khu vực.
Hỗ trợ các
hoạt động tự do hàng hải của Mỹ. Gần đây, Hải quân và Không quân Mỹ đã tiến
hành các hoạt động tự do hàng hải gần các đảo nhân tạo của Trung Quốc bằng việc
điều tàu USS Lassen đi vào khu vực 12 hải lý của một trong những hòn đảo này và
sau đó là máy bay ném bom B-52 bay qua. Theo truyền thông đưa tin, Lực lượng
Không quân Hoàng gia Úc đã tiến hành các hoạt động tự do hàng hải của riêng
mình bằng máy bay P-3 Orion vào giữa tháng 12.
Nhật Bản ủng
hộ mạnh mẽ các hoạt động này. Là một quốc gia biển và đồng minh thân cận của Mỹ,
Nhật Bản cần phải có hành động rõ ràng để hỗ trợ hoạt động tự do hàng hải ngay
cơ hội đầu tiên. Việc điều máy bay và tàu của JSDF đến khu vực vì mục đích này
được coi là phù hợp với hiến pháp của Nhật Bản. Cách tốt nhất để Nhật Bản thực
hiện hoạt động này là điều các tàu của JMSDF, theo lộ trình sẽ được triển khai
đến Vịnh Aden phục vụ cho các hoạt động chống cướp biển, đi qua các vùng biển
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền mà theo luật quốc tế là các vùng biển quốc tế. Bởi
vậy, Nhật Bản có thể thực hiện các hoạt động tự do hàng hải một cách tự nhiên
và bình tĩnh và bày tỏ rõ ràng quan điểm của mình dựa trên UNCLOS.
Ngăn chặn
Trung Quốc xây dựng đảo ở bãi cạn Scarborough. Nhằm kiểm soát có hiệu quả khu vực
nằm trong “đường 9 đoạn”, Trung Quốc có khả năng cần sử dụng các hòn đảo nhân tạo
vì mục đích chiến lược và có thể tìm cách cải tạo bãi cạn Scarborough. Nếu các
cơ sở quân sự trên bãi cạn này được hoàn thành, cán cân quyền lực chiến lược ở
Biển Đông sẽ bị thay đổi đáng kể tới mức độ không thể hồi phục đối với Nhật Bản
và Mỹ. Tác động tiêu cực được tạo ra bởi thách thức mới này cần phải được cả Nhật
Bản và Mỹ nhận biết và xem xét lại một cách nghiêm túc. Bởi vậy, điều có tầm
quan trọng chiến lược là huy động tất cả
các công cụ chính trị và ngoại giao có thể có cho sự hợp tác quốc tế nhằm ngăn
chặn những nỗ lực trong tương lai của Trung Quốc nhằm xây dựng một hòn đảo nhân
tạo ở bãi cạn Scarborough.
Thúc đẩy hơn
nữa các cuộc diễn tập song phương và đa phương với quân đội các nước Đông Nam Á
ven biển. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nhật Bản đã bắt đầu có các cuộc
trao đổi quân sự với các quốc gia của khu vực Biển Đông, và nhìn chung các mối
quan hệ của Nhật Bản với các nước này rất tốt. Các quốc gia này bao gồm Úc,
Indonesia, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei, Philippines và Việt Nam.
JMSDF cũng đã và đang tiến hành các cuộc diễn tập song phương và đa phương với
hải quân các nước ở Biển Đông rong hai
thập kỷ qua. Những cuộc diễn tập này đã cải thiện một cách nhanh chóng và thực
chất các mối quan hệ giữa hải quân hai nước và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
và phối hợp hoạt động, điều để cho Bắc Kinh thấy rằng Nhật Bản và Mỹ sẵn sàng
đáp trả bất kỳ hành động phiêu lưu mạo hiểm nào của Trung Quốc trong khu vực.
Điều cũng quan trọng đối với Nhật Bản và Hạm đội 7 của Mỹ là tiến hành các cuộc
diễn tập tiến hành chiến tranh song phương hỗn hợp ở Biển Đông, phòng xa để bảo
vệ những yếu tố tình báo của chính mình.
Cuối cùng
nhưng không kém phần quan trọng là các chuyến cập cảng mang tính chiến lược có
một vai trò quan trọng ở Biển Đông. Một hiệp định gần đây giữa Nhật Bản và Việt
Nam cho phép tàu của JMSDF cập cảng Cam Ranh, theo truyền thống là một điểm chiến
lược để kiểm soát toàn bộ Biển Đông, là một diễn biến đáng chú ý. Khả năng rất
lớn là Hải quân Mỹ sẽ nhanh chóng tham gia với JMSDF, và điều này sẽ tăng cường
sự hiện diện của Hải quân Mỹ ở Biển Đông. Có nhiều cơ hội khác cho các chuyến
thăm cảng chiến lược của Hải quân Nhật Bản và Hải quân Mỹ và nhiều vai trò mà cả
hai nước có thể đảm nhận trong việc trợ giúp sự ổn định khu vực.

- Không có bài viết liên quan
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét