Home » vanhoa
Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018
Hồ Chí Minh - tấm gương đạo đức sáng ngời
Hồ Chí
Minh là nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo kiệt xuất của cách mạng Việt
Nam trong thế kỷ XX. Tư tưởng của Người không chỉ là sự vận dụng mà
còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, phản ánh tinh thần thời đại,
xu thế vận động và phát triển của thế giới hiện đại và đương đại.
1. Tấm
gương đạo đức trong chỉnh thể tư tưởng - đạo đức và phong cách của Hồ
Chí Minh. Tư tưởng của Người hợp thành một hệ thống các quan điểm,
nguyên tắc và phương pháp ở tầm chiến lược và sách lược về cách
mạng và con đường cách mạng Việt Nam. Đó là cách mạng giải phóng
dân tộc, chống đế quốc thực dân và phong kiến, xóa bỏ ách áp bức,
bóc lột và nô dịch của chúng, giành lại độc lập cho Tổ quốc, tự do
cho dân tộc, hạnh phúc cho đồng bào mình và cho các dân tộc đang bị
đế quốc thực dân thống trị. Khát vọng tự do và quyền làm chủ của
nhân dân trong một xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ với thể chế
pháp quyền là một trong những điểm nổi bật, nhất quán của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Động cơ thúc đẩy Người hành động không mệt mỏi để thực
hiện, là: lòng yêu nước, thương dân vô hạn. Suốt đời, Người phấn đấu
và theo đuổi hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đó là những
giá trị cốt yếu của phát triển. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Cách mạng
Tháng Mười Nga và thời đại được Người giác ngộ, đem lại cho Người
niềm tin khoa học và lập trường cách mạng kiên định, đó cũng là nguồn
sáng chiếu rọi cuộc hành trình tư tưởng - lý luận và tranh đấu trong
thực tiễn của Người trên “Đường cách mệnh”1. Bởi thế, với Hồ Chí
Minh: giải phóng là điều kiện, tiền đề của phát triển, giải phóng
dân tộc để phát triển dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu, trên lập trường
của giai cấp công nhân; đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ
đạo của cách mạng kiểu mới - cách mạng vô sản, do Đảng kiểu mới -
Đảng Cộng sản cách mạng chân chính lãnh đạo; xác định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội,
đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh và là chủ kiến, chủ thuyết phát
triển của Người2.
Với Hồ
Chí Minh, cách mệnh là phá cái cũ lỗi thời, lạc hậu đổi ra cái
mới tiến bộ, phát triển. Cách mệnh trước hết phải có Đảng. Đảng
phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa giống như người không
có trí khôn. Chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa
Lê-nin (Mác – Lê-nin). Người cách mệnh, Đảng cách mệnh phải giác ngộ,
phải theo đuổi chủ nghĩa đó đến cùng. Cách mệnh do Đảng lãnh đạo
phải có lực lượng, Công - Nông là gốc của cách mệnh, phải đoàn kết
toàn dân thành lực lượng to lớn thì cách mệnh mới thành công. Đoàn
kết là một tư tưởng chiến lược, nổi bật, xuyên suốt đường lối và
phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh. Theo Người, thắng lợi của cách
mạng không chỉ dựa vào thiên thời, địa lợi mà quan trọng, quyết định
nhất là nhân hòa, cho nên mọi quyết sách, việc làm và hành động
phải thuận lòng dân, hợp với ý nguyện của dân, không làm điều gì
trái ý dân. “Vì dân” là mục đích của cách mạng, là lẽ sống của
người cách mạng. Việc gì có lợi cho dân thì quyết làm cho bằng
được. Việc gì có hại tới dân phải quyết tránh cho bằng được. Phục
vụ nhân dân là phục tùng chân lý cao nhất. Suốt đời làm công bộc tận
tụy, làm đầy tớ trung thành của nhân dân là lựa chọn lẽ sống cao
thượng nhất.
Là một
điển hình mẫu mực của sự nhất quán giữa nhận thức và hành động,
giữa nói và làm, đã nói là làm và sống theo phương châm: nói ít
làm nhiều, chủ yếu là hành động, Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng
kiệt xuất về một lãnh tụ của dân, suốt đời vì dân, gắn bó máu thịt
với dân, dấn thân và dâng hiến cả đời mình trong cuộc đấu tranh vì
độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc và nhân dân. Tận trung với
Nước, tận hiếu với Dân để tận hiến, dâng hiến cả cuộc đời và sự
nghiệp cho dân tộc, cho cả nhân loại. Đó là sự cao thượng, vĩ đại
của Hồ Chí Minh. Bởi thế, Người sống mãi trong lòng dân và trong
trái tim nhân loại. Không một chút riêng tư, Người suốt đời đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù nguy hiểm nhất; thứ “giặc nội xâm”,
“giặc ở trong lòng”, làm hư hỏng không ít người cách mạng, làm suy
yếu Đảng như thực tế đã xảy ra, làm cho dân mất niềm tin, kết cục
là thất bại và đổ vỡ. Bài học đau đớn, phải trả giá đắt ở Liên
Xô, Đông Âu cách đây 1/4 thế kỷ vẫn còn nguyên tính thời sự và ý
nghĩa cảnh báo. Điều đó cho thấy đạo đức cách mạng của người cách
mạng, của Đảng cách mạng, nhất là khi Đảng đã cầm quyền quan trọng
biết nhường nào. Qua đó, thấy được sự mẫn cảm đặc biệt, tầm nhìn xa
trông rộng của Hồ Chí Minh về vấn đề hệ trọng này.
Năm 1927,
khi viết tác phẩm “Đường cách mệnh” - đặt nền móng tư tưởng lý
luận, đồng thời chuẩn bị về chính trị và tổ chức cho việc thành
lập Đảng, Người đã đặt lên hàng đầu vấn đề “Tư cách của người cách
mệnh”, trong đó nổi bật yêu cầu “phải giữ chủ nghĩa cho vững”, “phải
ít lòng tham muốn về vật chất”. Di chúc để lại cho đồng bào, đồng
chí trước lúc đi xa, Người căn dặn “Trước hết nói về Đảng”, phải:
giữ gìn đoàn kết thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình; ra
sức thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng; thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người còn căn dặn “đầu tiên là
công việc với con người”, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch và
chính sách thật cụ thể, đúng đắn để chăm lo đời sống của dân, miễn
thuế nông nghiệp cho bà con nông dân, giáo dục truyền thống dân tộc và
cách mạng, chăm lo cuộc sống cho các gia đình chính sách, những người
có công với nước, quan tâm tới sự tiến bộ, trưởng thành của phụ nữ,
thanh niên, v.v. Tình thương yêu của Người dành cho tất cả mọi người, mọi
cảnh đời, mọi số phận, không sót một ai. Nhân ái - Vị tha - Bao dung
là những đặc trưng nổi bật của đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh, hiện
thân sinh động và cảm động nhất về một “Con Người lý tưởng”, hài
hòa Chân - Thiện - Mỹ, kết tinh và thăng hoa những phẩm chất tốt đẹp
nhất của dân tộc Việt Nam hòa quyện với tinh hoa văn hóa nhân loại và
tinh thần thời đại.
2. Tấm
gương đạo đức sáng ngời trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Trong cuộc hành trình 30 năm tìm đường, nhận đường và chọn đường đi
cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ
chủ nghĩa Mác, đã đến với nguồn sáng Lê-nin, tìm thấy trong “Luận
cương về quyền tự quyết của các dân tộc” do V.I. Lê-nin khởi thảo con
đường mà bấy lâu nay Người vẫn hằng mong mỏi tìm kiếm. Người đã
nhận thấy chân lý, nhận ra “con đường giải phóng” - “con đường cứu
sống chúng ta”, “cái cẩm nang chỉ dẫn hành động”. Ánh sáng từ Mác –
Lê-nin đến Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại mới đã tạo nên bước
ngoặt trong cuộc hành trình lịch sử của Người. Từ một người yêu
nước, thương dân vô hạn, với tinh thần dân tộc sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc
trở thành một người cộng sản, thấm nhuần lý tưởng cộng sản và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, suốt đời tranh đấu cho độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp vĩ đại ấy thúc đẩy Người
dấn thân và hy sinh, một lòng một dạ vì sự nghiệp cách mạng, mà sâu
xa là vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân, từ dân tộc mà
đến với thế giới nhân loại, từ yêu nước mà đến với chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đạo đức
Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, tranh đấu quên mình, hy sinh cả
cuộc sống riêng tư vì sự nghiệp mà Người tự nhủ và căn dặn những
người cách mạng - những học trò xuất sắc của Người thuộc thế hệ
đầu tiên lập Đảng. Cả cuộc đời và sự nghiệp, Hồ Chí Minh đã làm
tất cả vì Dân, vì Nước; trong gian lao khó nhọc, cả lúc hiểm nguy
thử thách khi bị giam cầm, đọa đầy trong lao tù của chế độ Tưởng
Giới Thạch, mất liên lạc với Đảng, với dân, Người vẫn một lòng kiên
trinh với lý tưởng, giữ trọn niềm tin với nghị lực phi thường vượt
lên hoàn cảnh. Trước sau như một: “Cả đời tôi chỉ có mục đích, là
phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”3. Đồng
thời, Người không ngừng phấn đấu với một ham muốn tột bậc làm cho Tổ
quốc được độc lập, dân tộc được tự do, đồng bào có hạnh phúc -
hạnh phúc bình dị mà vĩ đại: có cơm ăn, áo mặc, được học hành.
Tấm gương đạo đức ấy không gì có thể mờ phai.
Tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, là đạo đức chiến đấu và hy sinh, từ dấn thân
đến dâng hiến, suốt một đời gần dân, vì dân, thấu hiểu cuộc sống
của dân và thấu cảm lòng dân. Trả lời nhà báo Cộng sản Cu Ba, Người
nói: “Tôi tự nguyện dâng hiến đời tôi cho dân tộc” và “Mỗi người có
một nỗi đau riêng, mỗi gia đình có một nỗi khổ riêng. Gộp tất cả
nỗi đau khổ đó lại thành ra nỗi đau khổ của bản thân tôi!”. Lời nói
chân thành tự trái tim Người có sức lay động muôn triệu trái tim.
Người luôn
căn dặn cán bộ, đảng viên và công chức “dân là chủ và dân làm chủ”.
Phải dân chủ chứ không được “quan” chủ, là đầy tớ công bộc của dân
chứ không lên mặt “quan” cách mạng. Theo Người, đối với nhân dân của
mình, họ là những người chủ đích thực chứ không phải thần dân, và
Người “không phải là vua”4 mà là đầy tớ, công bộc của dân, “kính
trọng lễ phép với dân”, “gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, tin dân
để thương dân và suốt đời chỉ vì dân mà sống mà tranh đấu”. Bày tỏ
lòng biết ơn, lời cảm ơn trước tình cảm thương mến của mọi tầng lớp
nhân dân dành cho mình, Người nói: “Từ trước đến giờ tôi đã là người
của đồng bào thì từ giờ về sau, tôi mãi mãi thuộc về đồng bào”.
Đó là điển hình cho tình yêu, sự thủy chung của lãnh tụ vì dân.
Tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ Người nêu gương đạo đức trong
tranh đấu, từ chống giặc ngoại xâm đến chống “giặc nội xâm” mà Người
còn nêu gương suốt đời trong thực hành cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư để toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Là Chủ
tịch Nước, ở cương vị nguyên thủ quốc gia, đồng thời là Chủ tịch
Đảng5, Người là tấm gương sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, tuyệt
đối không màng danh lợi, đứng ngoài vòng danh lợi, chỉ luôn coi mình
là một người lính vâng lệnh quốc dân đồng bào, làm tròn nhiệm vụ do
dân ủy thác. Khi chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày
03-9-1945), Người đưa ra sáu vấn đề cấp bách phải làm ngay để lo cuộc
sống cho dân6. Đặc biệt, Người chủ trương: “mở cuộc vận động kêu gọi
các thành viên chính phủ” nhịn ăn để lấy gạo nuôi dân, cứ 10 ngày
nhịn một bữa không chết đâu nhưng dân thì có bữa cơm bữa cháo, mỗi bữa là
một bơ gạo, góp chung lại cứu dân nghèo và tôi xin làm trước tiên”.
Người còn cẩn thận đến mức nếu đến ngày quy định nhịn ăn mà Người
có việc phải tiếp khách thì Người sẽ nhịn bù vào hôm sau. Đã nói
là làm, từ việc nhỏ đến việc lớn, lời nói đi đôi với việc làm, làm
gương và nêu gương cho mọi người. Tấm gương ấy của Người làm cảm động
muôn người; là tấm gương sống, quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên
truyền. Bởi thế, Chính phủ do Người đứng đầu thực sự là Chính phủ,
là Nhà nước của dân, vì dân, hành động vì dân bởi rất mực thương
dân.
Đạo đức
Hồ Chí Minh có sức lay động, cảm hóa muôn triệu đồng bào trong nước
và thu hút sự ngưỡng mộ, kính trọng của bạn bè quốc tế. Ngày đầu
tiên trong hoạt động của Nhà nước (03-9-1945), Người đã có thư gửi
quốc dân đồng bào, công bố lịch tiếp dân, tiếp đại biểu các giới
đồng bào và các đoàn thể, “từ văn hóa giới, công giáo, công hội,
thương giới, thanh niên, phụ nữ, công chức, Phật giáo, cho đến nông
hội, Hoa kiều và các cháu nhi đồng”7. Trong đó, nêu rõ: “Xin gửi thư
nói trước để tôi sắp xếp thời giờ rồi trả lời bà con, khỏi mất
thời giờ chờ đợi mất công”. Người nêu yêu cầu “mỗi đoàn không quá
mười vị, mỗi lần không quá một tiếng đồng hồ”8. Tôn trọng dân chủ,
thiết tha lắng nghe tiếng nói của người dân như vậy, đó thực sự là
đạo đức, là văn hóa đạo đức trong chính trị của Hồ Chí Minh.
Hiếm có
vị chủ tịch nước nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sống đạm bạc, đến
mức khắc khổ trong cái ăn, cái mặc hằng ngày; bởi thương dân mà tiết
kiệm, bởi lãng phí là không thương dân, bởi mỗi đồng tiền bát gạo mà
ta tiêu dùng đều do mồ hôi, nước mắt của dân làm ra. Người lên án gay
gắt và nghiêm trị theo luật pháp những hành vi tham ô, tham nhũng, coi
đó là bất liêm, bất chính, bất nghĩa, phải trừng trị như trừng trị
một tội ác. Người nói cho cán bộ, công chức rõ, đồng bào đem mồ hôi
nước mắt để làm ra tiền của, để trả lương cho ta. Nếu lười biếng và
vô trách nhiệm trong công việc hàng ngày là lừa gạt dân chúng. Người
lấy mình làm gương, chú trọng giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng
viên, công chức và rèn luyện kỷ luật công vụ, xiết chặt kỷ cương, nề
nếp hành chính, sớm thành lập thanh tra chính phủ để kiểm soát hoạt
động của bộ máy và hành vi công chức. Những biện pháp ấy đều chỉ
vì mục đích “phục vụ dân” và “bảo vệ dân”.
Tấm gương
Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở đức trung thực, khiêm tốn, vị tha, nhân
ái, khoan dung, thấm nhuần chất nhân văn trong tham chính và cầm quyền,
trong ứng xử với người, với việc, mà cao hơn tất cả là tình thương
yêu dành cho dân chúng mãi không bao giờ thay đổi. Khi gửi thư chúc
mừng thượng thọ một cụ già 80 tuổi (lúc đó Người đã 60 tuổi) mà
Người xưng hô là cháu: “Cháu xin thay mặt Chính phủ chúc thọ Cụ.
Chúc Cụ sống lâu muôn tuổi để cùng con cháu kháng chiến kiến quốc
tới ngày thắng lợi”. Người lấy tiền tiết kiệm của mình để mua nước
ngọt gửi ra trận địa cho bộ đội đang trực chiến giữa những trưa hè
nóng nực. Người viết thư loan báo cho đồng bào rõ: để tỏ lòng biết
ơn các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc và những gia đình có công với
nước, Người sẽ nhận tất cả con liệt sĩ là con mình, v.v. Mỗi một
chiến sĩ ngã xuống trên chiến trường, Người như đứt từng khúc ruột.
Người rộng lòng bao dung khoan thứ, kiềm chế ngay cả những lúc Người
không hài lòng trước những việc làm sai, những người làm hỏng. Người
căn dặn “phê bình việc chứ không phê bình (với ý xúc phạm) người”.
Trong Di chúc, Người căn dặn “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau”, phê bình có lý có tình, ứng xử có tình có nghĩa,... Người
để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí và không quên
gửi lời chào bạn bè quốc tế và nhân dân thế giới, v.v.
Một con
người, một nhân cách, với tấm gương đạo đức sáng ngời như thế mà lại
tự thấy mình chưa xứng đáng, từ chối nhận huân chương. Người đã trở
về với thế giới người Hiền gần nửa thế kỷ, nhưng không lúc nào ta
cảm thấy Người đi xa, Người vẫn ở bên ta như động viên, nhắn nhủ,
thúc giục để ở đời thì phải thân dân, làm người thì phải chính tâm,
xứng đáng là đầy tớ trung thành, công bộc tận tụy của dân. Tấm gương
đạo đức ngời sáng Hồ Chí Minh còn sáng mãi trong cuộc đời, trong dân
tộc và thế giới, còn sống mãi với thời gian.
Như thế,
nhà tư tưởng Hồ Chí Minh còn đồng thời là nhà đạo đức học Hồ Chí
Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sĩ kiên cường đấu tranh
cho tự do, cho phẩm giá con người, người bạn lớn của nhân dân các dân
tộc trên thế giới, nhà văn hóa kiệt xuất. Thực hành biền bỉ và nêu
gương mẫu mực về đạo đức ở đời và làm người, đó là tư tưởng mà
cũng là đạo đức, đó là phương pháp mà cũng là phong cách Hồ Chí
Minh mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức học tập và làm
theo.
Tấm gương
đạo đức sáng ngời của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của
dân tộc, của Đảng ta, là niềm tự hào của mọi thế hệ người Việt
Nam, là sức mạnh tinh thần, trở thành động lực thúc đẩy chúng ta
trong đổi mới, hội nhập để phát triển. Tấm gương đó tỏa sáng trong tư
tưởng, đạo đức và phong cách của Người, trở thành giá trị chuẩn
mực và định hướng giá trị trong giáo dục và thực hành đạo đức cho
các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Đạo đức và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh còn có ảnh hưởng và hiệu ứng rộng rãi trong
đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc trên thế giới, bởi những
người bạn bè, anh em của Việt Nam với tất cả tấm lòng chân thành,
tin cậy đều dành cho Người sự khâm phục, ngưỡng mộ và kính trọng.
“Việt Nam - Hồ Chí Minh”, “Việt Nam - Bác Hồ”, từ lâu đã được các
bạn bè quốc tế của chúng ta cất lên tiếng nói, tiếng gọi trìu mến,
thân thương khi đến Việt Nam - Tổ quốc của Người, khi đến thăm nơi ở
và làm việc của Người tại Thủ đô Hà Nội, “ngôi nhà sàn đơn sơ giản
dị, ngát hương thơm cây cỏ hoa vườn nhưng tâm hồn lộng gió bốn phương
thời đại” (Phạm Văn Đồng). “Hồ Chí Minh” và “Bác Hồ” đã từ lâu trở
thành từ vựng quen thuộc, không chỉ là biểu tượng của nhà chính trị
lỗi lạc mà sâu xa, rộng lớn hơn là nhà văn hóa lớn, biểu trưng cho
văn hóa đạo đức, cho văn hóa nhân cách Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh.
Sự thật
ấy của lịch sử, tự nó đã bác bỏ tất cả những gì mà những kẻ
thù địch đang ra sức xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam, mưu toan
hạ thấp giá trị Hồ Chí Minh, gieo rắc những giả tượng xuyên tạc bản
chất, cố tình ngụy tạo, với ác ý thâm độc gây ra những hoài nghi về
đạo đức và tấm gương đạo đức của Người, nhất là đối với những
người trẻ tuổi sinh ra và lớn lên trong thời hiện tại, không có những
trải nghiệm thực tiễn trong quá khứ như các lớp cha anh của họ. Cũng
có những kẻ cơ hội, xu thời, đã từng thụ hưởng những ân huệ đầy
tình nghĩa của chế độ dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh sáng lập,
chỉ vì lòng dạ không còn trong sáng nữa, mang nặng những thiên kiến
chủ quan, chủ nghĩa cá nhân, hám danh, vụ lợi và vị kỷ mà cố tình
xuyên tạc sự thật hoặc đồng lõa với những kẻ xuyên tạc. Họ chẳng
thể vấy bẩn được ai mà tự vấy bẩn chính mình, tự hạ thấp mình mà
thôi.
Lịch sử
vốn công minh, khách quan. Trí tuệ của nhân dân là sáng suốt. Dư luận
thế giới là rộng lớn. Những ai có lương tri và trọng phẩm giá con
người đều nói tiếng nói trung thực, có cốt cách của học thức và
văn hóa trong cảm nhận, đánh giá về Hồ Chí Minh. Và đây là dòng chủ
đạo, tự nó đã có sức mạnh phủ định và phê phán những giọng điệu
lạc lõng xuyên tạc về Việt Nam, về Đảng và Bác Hồ.
GS, TS.
HOÀNG CHÍ BẢO

- 盂兰节——报孝节是越南人民一年中的大节日
- Vu lan - mùa báo hiếu, ngày lễ lớn trong năm của người Việt Nam
- 在海外越南人社群中推崇越南语之魅力
- Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
- 网络空间上“崇洋”、文化“混血”——应斗争和批驳的表现
- Biểu hiện “sùng ngoại”, “lai căng” văn hoá trên không gian mạng - cần đấu tranh, bác bỏ
- 《胡志明主席与体育运动》一书问世
- Ra mắt bộ sách đặc biệt "Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thể dục Thể thao"
- 农历春节漫谈越南的家庭传统
- Ngày Xuân nghĩ về truyền thống gia đình
- 文化适应——经济复苏和可持续发展的基础
- Tiếp biến văn hóa - Nền tảng phục hồi và phát triển bền vững kinh tế
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét