Home » biendao
Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2019
Ý đồ thâm sâu của TQ trong cuộc cưỡng chiếm Hoàng Sa năm 1974
(BDN) Nhìn lại trận chiến Hoàng Sa năm 1974 cho thấy Trung Quốc hành xử có tính toán rất thâm sâu. Mặc dù cưỡng chiếm Hoàng Sa không tạo nên danh nghĩa chủ quyền vì trái với luật pháp quốc tế, nhưng Trung Quốc vẫn quyết hành động để phục vụ những ý đồ chiến lược lâu dài vươn lên thành cường quốc khu vực.
45 năm trước vào ngày 19/01/1974, Trung Quốc phát động cuộc chiến xâm lược Hoàng Sa của Việt Nam. Hải quân của Trung Quốc tấn công lực lượng hải quân Việt Nam canh giữ tại đảo Quang Hoà ở phía Tây Hoàng Sa, và kể từ đó toàn bộ Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc.
Không có danh nghĩa chủ quyền
Mặc dù chiếm đóng toàn bộ Hoàng Sa nhưng Trung Quốc không có danh nghĩa chủ quyền đối với Hoàng Sa xét theo các quy định của luật pháp quốc tế có hiệu lực vào thời điểm đó.
Thứ nhất, hành động của Trung Quốc là xâm lược lãnh thổ của Việt Nam. Chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa xác lập từ triều đại nhà Nguyễn trong thế kỷ XVII, khi đó Hoàng Sa là lãnh thổ vô chủ chưa thuộc về quốc gia nào. Việt Nam sau đó thực thi chủ quyền hoà bình và quản lý liên tục và hiệu quả đối với Hoàng Sa. Trong giai đoạn thực dân đô hộ, Pháp với danh nghĩa là bảo hộ Đông Dương (gồm Việt Nam) tiếp tục thực thi chủ quyền với Hoàng Sa. Năm 1954, Pháp chuyển giao Hoàng Sa cho Việt Nam Cộng hoà theo tinh thần Hiệp định Geneva. Năm 1975, Việt Nam dân chủ cộng hoà tiếp nhận quyền quản lý với Hoàng Sa khi hai miền thống nhất.
Thứ hai, hành động của Trung Quốc vi phạm Điều 02 của Hiến chương Liên hợp quốc về cấm các quốc gia sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế điều chỉnh hành vi của các cuốc gia và Trung Quốc bắt buộc phải tuân thủ vì là thành viên thành lập và ký kết Hiến chương. Nguyên tắc không sử dụng vũ lực còn được cụ thể hoá trong Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc: “Các quốc gia có nghĩa vụ không đe doạ hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác, hay coi đe doạ hay sử dụng vũ lực như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia.”
Thứ ba, hành động của Trung Quốc không tạo thành chứng cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa. Nghị quyết 2625 cũng nêu rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe doạ hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp.”
Ý đồ đằng sau
Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn quyết chiếm cho bằng được Hoàng Sa để phục vụ cho các tính toán chiến lược của nước này.
Thứ nhất, Trung Quốc lợi dụng lúc tình hình quốc tế xáo trộn để trục lợi và xâm chiếm mở rộng lãnh thổ. Trung Quốc nhân lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang vướng bận chiến đấu chống Mỹ và sắp giành chiến thắng nên Trung Quốc chiếm đóng trước để tránh trường hợp Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đưa lực lượng ra tiếp quản Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hoà. Trung Quốc tính toán một khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp quản Hoàng Sa thì Trung Quốc khó có cơ hội mở rộng lãnh thổ ra Biển Đông vì Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lúc đó được sự hậu thuẫn từ Liên Xô, được Trung Quốc coi là đối thủ sau chiến tranh biên giới Xô-Trung năm 1969. Trung Quốc cũng lo ngại Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô có thể vào Biển Đông và hiện diện ở Hoàng Sa thì Trung Quốc sẽ nằm trọn trong gọng kìm của Liên Xô (cùng với biên giới phía Bắc với Liên Xô). Do đó, ngay sau khi chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc liền nhanh chóng điều động và lắp đặt các thiết bị quân sự, trạm ra-đa, cầu tàu, cảng biển, kho vận,… trên Hoàng Sa để làm bàn đạp tiến xuống xâm chiếm phần phía Nam Biển Đông về sau, nhất là Trường Sa.
Thứ hai, Trung Quốc giành kiểm soát với nguồn tài nguyên xung quanh Hoàng Sa, đặc biệt là nguồn tài nguyên dầu khí. Thông tin về dầu khí ở Biển Đông nổi lên từ những năm 1960 đã thu hút sự chú ý của Trung Quốc. Kiểm soát được tài nguyên xung quanh Hoàng Sa và dầu khí không những mang lại nguồn thu trực tiếp cho ngân sách quốc gia mà còn là nguyên nhiên liệu phục vụ công cuộc cải cách mở cửa kinh tế, nhất là phát triển các ngành chế tạo phục vụ xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc.
Thứ ba, Hoàng Sa có giá trị địa chiến lược về kiểm soát không gian Biển Đông. Từ Hoàng Sa, Trung Quốc có thể kiểm soát các vùng biển lân cận và các tuyến đường vận tải từ Đông Bắc Á xuống Biển Đông, đến các nước Đông Nam Á và sang Ấn Độ Dương. Đây là tuyến đường vận tải biển huyết mạch của các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Kiểm soát được tuyến đường biển này giúp tăng giá trị của Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh với Nhật Bản và Hàn Quốc ở Đông Bắc Á.
Thứ tư, chiếm Hoàng Sa để thử phản ứng các nước lớn trong tham vọng vươn lên thành cường quốc của Trung Quốc. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô là hai siêu cường dẫn dắt hai cực nên Trung Quốc rất chú ý đến phản ứng của hai nước này. Mỹ, Liên Xô hiểu ý đồ hành động của Trung Quốc nhưng hai nước gặp cái khó riêng. Mỹ vừa mới hoà dịu với Trung Quốc (Nixon thăm Trung Quốc năm 1972) và đang thua trận, rút quân khỏi chiến trường Việt Nam, Trung Quốc tấn công để chiếm Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng hoà khiến Mỹ không thể phản ứng mạnh. Liên Xô lúc đó không đứng về phía Việt Nam Cộng hoà (là bên quản lý Hoàng Sa) nên không thể lên tiếng phản đối Trung Quốc. Khi Mỹ và Liên Xô không có hành động phản ứng hoặc ngăn cản thì Trung Quốc tiếp tục lấn tới để giành vị trí bá chủ thiên hạ.
Nhìn lại trận chiến Hoàng Sa năm 1974 cho thấy Trung Quốc hành xử có tính toán rất thâm sâu. Mặc dù cưỡng chiếm Hoàng Sa không tạo nên danh nghĩa chủ quyền vì trái với luật pháp quốc tế, nhưng Trung Quốc vẫn quyết hành động để phục vụ những ý đồ chiến lược lâu dài vươn lên thành cường quốc khu vực.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét