Home » biendao
Thứ Hai, 4 tháng 3, 2019
Tham vọng “độc quyền kiểm soát Biển Đông” của Trung Quốc và những nguy cơ
BDN - Trong con mắt của lãnh đạo Trung Quốc, Biển Đông có lợi ích rất quan trọng đối với chiến lược mở rộng ảnh hưởng và trở thành cường quốc thế giới. Về chính trị, Biển Đông là nơi để Trung Quốc triển khai học thuyết “biên giới mềm” và chính sách “hướng nam” của họ; là con đường “sống còn” để Trung Quốc khắc phục sự “án ngữ” của các nước xung quanh như Ấn Độ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc nhằm mở rộng ảnh hưởng ra thế giới; là “cửa ngõ” cho Trung Quốc thoát khỏi vòng kiềm chế, ngăn chặn của Mỹ để trở thành cường quốc thế giới. Về kinh tế, Biển Đông có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nếu được khai thác sẽ góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế nhanh của một đất nước đông dân nhất thế giới đang lâm vào tình trạng thiếu khát tài nguyên nghiêm trọng, nhất là dầu mỏ. Biển Đông lại có các tuyến đường giao thông hàng không, hàng hải nhộn nhịp vào hàng bậc nhất thế giới, nên “ai nắm được Biển Đông thì người đó sẽ nắm được huyết mạch kinh tế Đông Á”. Về quân sự, Biển Đông là khu vực án ngữ lối ra vào lục địa châu Á của hải quân Mỹ và Nhật Bản, là tuyến đường qua lại của tàu chiến từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Trên Biển Đông còn có các quần đảo quan trọng có ý nghĩa chiến lược và chiến thuật nằm giữa trung tâm biển, khống chế các tuyến giao thông và các hoạt động trên biển khác. Các quần đảo là những nơi có thể cải tạo, xây dựng thành căn cứ quân sự vừa có thể làm nơi xuất phát tiến công đối phương thù địch, vừa có thể trở thành vành đai, chốt tiền tiêu cho việc phòng thủ bảo vệ đất liền từ xa. Vì thế, nếu kiểm soát được Biển Đông, Trung Quốc sẽ mở rộng được không gian phòng thủ, đẩy chiến trường ra xa đất liền. Nếu có thêm các căn cứ quân sự ở các quần đảo, cho phép Trung Quốc theo dõi và có thể đe dọa hoạt động quân sự của các nước khu vực Đông Nam Á, kể cả khống chế hoạt động quân sự của Mỹ. Ngoài ra, kiểm soát được Biển Đông còn giúp Trung Quốc quy tụ được sức mạnh của hàng triệu người Hoa ở các nước trong khu vực Đông Nam Á, tăng cường cố kết dân tộc, hỗ trợ cho việc thống nhất, thu hồi vùng lãnh thổ Đài Loan.
Chính vì vậy, từ lâu Trung Quốc đã nuôi tham vọng “độc quyền quyền kiểm soát Biển Đông”, thông qua đó để xâm nhập, chi phối các nước Đông Nam Á trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự, từ đó mở rộng vai trò và ảnh hưởng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Trung Quốc ra sức thực hiện chiến lược “Đại dương xanh” với tư tưởng chỉ đạo là “Mở cửa với bên ngoài, phát triển nền kinh tế hướng ngoại gắn với đường lối ngoại giao, chính trị đúng đắn, lực lượng hải quân hùng mạnh, thực sự là chỗ dựa vững chắc cho công cuộc phát triển”. Theo đó xác định chủ trương với Biển Đông là: Ra sức tăng cường tiềm lực quốc phòng, đặc biệt là lực lượng hải quân, đủ sức đánh thắng và răn đe trên biển, thực sự là chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động khác để từng bước giành quyền kiểm soát Biển Đông, bảo đảm cho Trung Quốc có vai trò quyết định ở Châu Á - Thái Bình Dương và trở thành một cường quốc hàng hải tầm cỡ thế giới. Trung Quốc xác định mục tiêu từng bước “thu hồi chủ quyền” tiến tới thực hiện “độc quyền kiểm soát” Biển Đông, thông qua đó tiến ra Thái Bình Dương và tạo điều kiện thuận lợi đi vào Ấn Độ Dương; đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, phấn đấu xây dựng Trung Quốc thành cường quốc kinh tế biển. Đặc biệt chú trọng khai thác nguồn tài nguyên dầu khí để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong nước; liên kết các “chuỗi đảo” vừa là ranh giới tự bảo vệ, vừa là ranh giới hoạt động. Xác định vòng cung Nhật Bản - Đài Loan - Hải Nam - Hoàng Sa - Trường Sa là “chuỗi đảo trong”, Nhật Bản - Philippines - Kalimantan - Sri Lanka là “chuỗi đảo ngoài” và phấn đấu đến năm 2010, lực lượng hải quân hoạt động có hiệu lực trong vùng “chuỗi đảo trong”, sau năm 2010 hải quân vươn ra hoạt động ở khu vực “chuỗi đảo ngoài”.
Với tham vọng trên, Trung Quốc chính thức tuyên bố với thế giới rằng họ có “chủ quyền” phần lớn với Biển Đông, được phân hoạch bằng đường đứt đoạn 9 khúc do Trung Quốc đơn phương tự vẽ, hòng chiếm đoạt vùng biển của nhiều nước xung quanh Biển Đông. Trung Quốc đã xây dựng, triển khai thực thi hàng loạt chính sách, bước đi nhằm thực hiện tham vọng bằng các hành động nổi bật sau: Một là liên tục tìm cách hợp thức hóa về pháp lý đối với tuyên bố đòi hỏi “chủ quyền” ở Biển Đông; hai là thúc đẩy triển khai “Chiến lược phát triển kinh tế biển” nhằm hỗ trợ cho chiến lược Biển Đông; ba là đẩy mạnh thực hiện các kế hoạch thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông; bốn là tăng cường xây dựng sức mạnh quân sự, trong đó ưu tiên phát triển lực lượng hải quân, không quân và tên lửa chiến lược nhằm mục đích khống chế Biển Đông, đồng thời ngăn chặn sự can thiệp của nước khác; năm là thúc đẩy chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác”, phân hóa các nước ASEAN, kéo dài thời gian để tìm thời cơ thích hợp thực hiện mục tiêu chiến lược ở Biển Đông.
Những chính sách và bước đi nhằm thực hiện tham vọng “độc quyền kiểm soát Biển Đông” của Trung Quốc trong mấy chục năm qua đã làm cho tình hình Biển Đông thường xuyên bất ổn, trở thành một trong những “điểm nóng” nhất trong các điểm nóng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Và chính nó, mang lại cho Trung Quốc những nguy cơ, thách thức mà bản thân lãnh đạo Trung Quốc chưa chắc đã lường tới. Đó là:
Thứ nhất, tham vọng và hành động của Trung Quốc đã bộc lộ rõ tư tưởng “bành trướng” và Đại Hán của Trung Quốc. Thứ tư tưởng đã từng ăn sâu bén rễ rất lâu đời ở đất nước Trung Hoa thời phong kiến cổ xưa, từng mang lại cho các quốc gia, dân tộc ở xung quanh Trung Quốc những mất mát, khổ đau to lớn khiến các quốc gia, dân tộc đó đời này, kiếp khác luôn nhắc nhở nhau rằng phải hết sức cảnh giác, đề phòng nó nếu muốn giữ vững được chủ quyền, độc lập và tự chủ. Thứ tư tưởng mà các thế hệ lãnh đạo của nước Trung Hoa mới xã hội chủ nghĩa đã phải mất rất nhiều công sức bác bỏ, phủ nhận và làm mọi cách để xóa mờ nó đi, nhằm xây dựng hình ảnh một nước Trung Hoa đầy trách nhiệm, tôn trọng chính nghĩa, công bằng, bình đẳng và đứng về phía các nước, các dân tộc đang phát triển. Giờ đây, không ai còn tin rằng nước Trung Quốc hiện tại và lãnh đạo của họ đã vứt bỏ tư tưởng “bành trướng”, Đại Hán trên. Thành quả cải thiện hình ảnh của Trung Quốc bấy lâu nay đổ xuống sông xuống biển hết.
Thứ hai, tham vọng và hành động của Trung Quốc không phải được tất cả người dân Trung Quốc có lương tri, yêu lẽ phải đồng tình ủng hộ. Những người Trung Quốc chân chính là những người có tri thức hiểu biết, yêu nước, yêu dân tộc mình, trọng lẽ phải và lòng tự hào dân tộc đã không đồng tình, không chấp nhận những gì Trung Quốc thể hiện ở Biển Đông. Đã có không ít tiếng nói phản kháng ở trong nước, không ít ý kiến của những học giả có uy tín người Trung Quốc phê phán, phủ nhận đường 9 khúc phi lý và không tưởng do lãnh đạo Trung Quốc nặn ra. Sự không đồng tình đó đã gây ra những cuộc tranh luận gay gắt trong các giai tầng xã hội Trung Hoa và nó đã phần nào làm tổn hại lòng tin của một bộ phận quần chúng nhân dân. Đương nhiên, lãnh đạo Trung Quốc phải tìm cách “dập” những luồng ý kiến đó đi. Nhưng việc “dập” đi đó chỉ làm cho bất bình càng âm ỉ, tích tụ và sẽ có dịp bùng phát khi nó được cộng hưởng bởi những khuyết tật, yếu kém trên các lĩnh vực khác của đời sống xã hội mà chế độ không giải quyết được. Nguy cơ bất ổn trong lòng xã hội Trung Quốc không phải không có.
Thứ ba, những gì Trung Quốc thực hiện trong những năm qua đã khiến họ tự biến mình thành đối thủ tranh chấp trực tiếp với tất cả các nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Khi Trung Quốc hành xử theo kiểu nước lớn, các nước nhỏ, yếu hơn đương nhiên phải nhẫn nhịn, thậm chí im lặng để giữ hòa khí. Nhưng sự nhẫn nhịn đó cũng chỉ có giới hạn bởi chủ quyền quốc gia là rất thiêng liêng và cũng là không gian sinh tồn của những người dân trên đó. Các quốc gia bị uy hiếp sẽ buộc phải xây dựng tiềm lực quân sự, gia tăng sức mạnh quốc phòng để đảm bảo phòng thủ, bảo vệ chủ quyền đất nước. Lẽ đương nhiên, các nước nhỏ, yếu hơn sẽ tìm đến nhau, liên kết và hỗ trợ, ủng hộ lẫn nhau trong “cuộc đấu” với một đối thủ có sức mạnh vượt trội. Đó là chưa kể họ cũng tìm cách kết thân với một nước lớn nào đó để có được “chiếc ô” che chở khi có biến, thậm chí gia nhập một liên minh hoặc thiết lập căn cứ quân sự nước ngoài trên đất nước mình. Lãnh đạo Trung Quốc dường như cũng nhận ra điều đó nên đang phải “xoa dịu” các nước bằng chính sách “thân, thành, huệ, dung”. Nhưng làm sao lấy lại được thân thành đây khi tham vọng chưa dừng lại.
Thứ tư, lâu nay, các phương tiện truyền thông phương Tây tuyên truyền rất mạnh mẽ về thuyết “Trung Quốc đe dọa”. Người ta vẽ ra rất nhiều hình ảnh và viễn cảnh về một nước Trung Hoa dữ tợn, một ngày nào đó sẽ đè đầu, cưỡi cổ các quốc gia, dân tộc một khi họ trở thành siêu cường thế giới. Bộ máy tuyên truyền và truyền thông Trung Quốc đã phải hoạt động hết công suất để cải chính, bác bỏ và cho rằng đó là cách để phương Tây hù dọa mọi người. Trớ trêu thay, tham vọng và những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông lại là minh chứng cụ thể, xác thực và rõ ràng nhất về những gì Trung Quốc đang đe dọa thế giới, trước hết là các nước Đông Nam Á. Hóa ra những gì phương Tây nói không phải là “điêu ngoa”.
Thứ năm, tham vọng và hành động của Trung Quốc không thể qua được mắt Mỹ và các nước lớn phương Tây. Trong bối cảnh và xu thế cạnh tranh địa chiến lược toàn cầu, những hành xử của Trung Quốc đối với các nước ven Biển Đông vô hình chung đã tạo cơ hội cho Mỹ, phương Tây quay lại Châu Á - Thái Bình Dương một cách đàng hoàng và có điều kiện bịt chặt con đường “hướng Nam” của Trung Quốc. Người Mỹ biết rõ ý đồ chiến lược lớn của Trung Quốc là gì và ở đâu nên tâm điểm chiến lược ngăn chặn Trung Quốc sẽ hiện diện ngay tại Biển Đông. Với quan điểm “nước Mỹ trên hết”, Mỹ sẽ sẵn sàng can dự vào vùng biển này, kể cả bằng quân sự để bảo vệ công dân và “lợi ích” Mỹ tại đây. Trung Quốc sẽ phải đối đầu với Mỹ ngay trước “cửa ngõ’ nhà mình. Nhìn lại, đến nay Trung Quốc đã có “đồng minh” nào sẵn lòng cùng họ tiến hành một “cuộc chơi” với một bên là Mỹ và các đồng minh hùng hậu của Mỹ không. Rõ ràng, giấc mộng “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa” khó mà thành hiện thực trong trung hạn.
Chỉ sơ sơ vạch ra năm nguy cơ, thách thức Trung Quốc sẽ phải đối mặt khi thực hiện tham vọng “độc quyền kiểm soát” Biển Đông đã thấy nước này không dễ đạt được những gì họ muốn. Cách thức thời nhất là nên dừng tham vọng đó lại khi chưa phải là quá muộn.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét