Home » ton giao
Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019
Lợi dụng tự do tôn giáo để kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc - trò cũ soạn lại
Trong chiến lược chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo là một trọng điểm; phụ họa cho mưu đồ đó, họ thường lặp đi lặp lại các luận điệu xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo của người dân. Báo cáo thường niên của Ủy hội Quốc tế Hoa Kỳ về tự do tôn giáo thế giới (USCIRF) những năm qua là một điển hình!
Mục tiêu nhất quán và xuyên suốt của họ là đối lập tôn giáo với chế độ xã hội chủ nghĩa; tách các tôn giáo khỏi khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện điều đó, họ sử dụng các thủ đoạn: xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo; dựng chuyện bịa đặt, vu cáo các cấp chính quyền phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo để kích động, chia rẽ trong nước và hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế, v.v. Họ coi các phần tử cực đoan, chống đối trong các tôn giáo là “ngòi nổ”, là lực lượng nòng cốt để lôi kéo, tập hợp quần chúng làm “đối trọng” với Đảng, Nhà nước và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Cùng với việc hậu thuẫn cho các lực lượng này hoạt động chống phá đất nước, họ còn phối hợp chặt chẽ với các cá nhân, tổ chức quốc tế thiếu thiện chí để bịa đặt, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Cũng như các năm trước, Báo cáo thường niên năm 2019 của USCIRF công bố ngày 29-4-2019 lại đưa ra nhận định sai trái về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ cho rằng: tình hình vi phạm tự do tôn giáo ở Việt Nam tiếp tục có khuynh hướng tiêu cực, tình trạng chung của các nhóm tôn giáo ở Việt Nam đã xấu đi trong năm 2018; rằng: “Chính phủ Việt Nam tiếp tục đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa để đòi hỏi tự do tín ngưỡng và tự do thờ phụng”, “Nhiều tổ chức tôn giáo không được chính phủ công nhận và không được cấp giấy phép sinh hoạt”? v.v. Đây là những luận điệu bịa đặt cũ rích, được nhào nặn, lặp đi, lặp lại với ý đồ chính trị xấu xa. Vì không thể phủ nhận hoàn toàn đời sống tôn giáo đang diễn ra hết sức phong phú ở nước ta, Báo cáo buộc phải ghi nhận “một số thành tựu và tiến triển” trong công tác bảo đảm và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Tuy ra vẻ có chú ý đến những biến đổi ở Việt Nam, song điểm bao trùm và xuyên suốt trong Báo cáo vẫn là những thông tin áp đặt, định kiến chủ quan, nhằm hậu thuẫn các hoạt động vi phạm pháp luật núp dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền”, hòng can thiệp nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn chính trị đất nước ta.
Vấn đề đặt ra, tại sao USCIRF cứ “trò cũ soạn lại” như thế? Dễ hiểu thôi. Với rắp tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, họ không thể thừa nhận những thành tựu đổi mới của nhân dân ta và những tiến bộ về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Do bị chi phối bởi quan điểm của những thế lực cực hữu trong chính giới Hoa Kỳ, họ chỉ quanh quẩn với những trò cũ mà không vượt qua được “lằn ranh” định kiến với Việt Nam; không căn cứ vào tình hình thực tế về tự do tôn giáo đang diễn ra, mà chỉ dựa vào thông tin của những kẻ bất mãn, chống đối trong nước, các tổ chức phản động lưu vong - những kẻ thường lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo” để chống phá Việt Nam. Với cách tiếp cận áp đặt, chủ quan, mang nặng tư duy thời chiến tranh lạnh như vậy, USCIRF đang đi ngược lại mối quan hệ Đối tác toàn diện và Tầm nhìn chiến lược đang phát triển rất tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ!
Ở mỗi quốc gia khác nhau, có những quan niệm khác nhau về tự do tôn giáo được xác định bởi truyền thống, văn hóa dân tộc. Bởi vậy, để có đánh giá đúng đắn, khách quan về tự do tôn giáo ở bất kỳ một nước nào, phải căn cứ vào nhiều nội dung, nhưng trước hết phải dựa trên hai vấn đề cơ bản nhất: chính sách, pháp luật của nhà nước và thực tế đời sống tôn giáo của nhân dân.
Là một nước đa tôn giáo, nhưng cộng đồng các tôn giáo Việt Nam luôn luôn gắn bó với vận mệnh của dân tộc; là một trong những nhân tố tích cực làm nên sự đa dạng và đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và từ đặc điểm, tình hình tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; thực hiện bình đẳng, đoàn kết giữa các tôn giáo, không thành kiến, phân biệt đối xử; nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, v.v. Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL khẳng định:“Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”1. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng chỉ rõ: “Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”2.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng và luật pháp quốc tế về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các Hiến pháp của nước ta: năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều thể hiện rõ quan điểm nhất quán, xuyên suốt là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với đó, Quốc hội ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2016) và Chính phủ có Nghị định hướng dẫn tổ chức thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, phù hợp với yêu cầu của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo thời kỳ mới của đất nước. Đồng thời, thể hiện sự tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm hơn nữa quyền tự do tôn giáo của nhân dân; đổi mới cơ chế quản lý, tạo thông thoáng, minh bạch, cơ chế pháp lý nhằm tôn trọng, bảo hộ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Ngược lại với những luận điệu trí trá, bịa đặt về tự do tôn giáo ở Việt Nam, những năm qua, với các chủ trương, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ta được bảo đảm tốt trong thực tế. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân được các cấp chính quyền tôn trọng, bảo đảm theo đúng quy định pháp luật; số lượng cơ sở thờ tự, số lượng tín đồ, chức sắc, chức việc cũng như các lễ hội không ngừng tăng lên. Hiện nay, Việt Nam có hơn 24,3 triệu người là tín đồ của 6 tôn giáo lớn; cả nước có hơn 28.000 cơ sở thờ tự; hơn 8.000 lễ hội được tổ chức hằng năm; các tôn giáo đều có hệ thống đào tạo riêng của mình, v.v. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, các địa phương đã giải quyết tốt việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tạo điều kiện tu sửa, nâng cấp, xây mới cơ sở thờ tự của các tôn giáo; thủ tục hành chính giải quyết nhu cầu sinh hoạt tôn giáo bảo đảm nhanh, gọn, đúng quy định. Đồng thời, phối hợp tốt với các bộ, ngành, đoàn thể, cụ thể hóa chủ trương chăm lo đời sống đồng bào tôn giáo bằng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả, làm cho đời sống đồng bào các tôn giáo được nâng lên, giải quyết kịp thời các vấn đề an sinh xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Cùng với việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước ta nghiêm cấm mọi hoạt động lợi dụng tự do tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Thời gian qua, việc các cơ quan chức năng ở một số địa phương bắt giữ, xử lý một số người lợi dụng tự do tôn giáo để chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động các cơ quan nhà nước và công dân, truyền bá mê tín dị đoan, phát triển tà đạo,... làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội là việc làm bình thường, hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Điều đó hoàn toàn không phải là hành vi “đàn áp” hay “hạn chế” tôn giáo, như các luận điệu thù địch xuyên tạc.
Trên đất nước ta, từ Bắc vào Nam, từ thành thị, nông thôn đến miền núi, ở đâu cũng có đền, chùa, tháp chuông, nhà nguyện, tòa thánh,… được xây dựng khang trang, cùng với các nghi lễ mang đậm bản sắc tôn giáo ở mỗi vùng miền. Đồng bào Công giáo, chắc hẳn ai cũng thấy rõ những thay đổi tại Vương cung Thánh đường La Vang ở Hải Lăng, Quảng Trị - nơi từng bị bom đạn Mỹ phá hủy năm 1972, hiện đã được xây dựng lại trên một khu đất rộng 21 ha, có sức chứa 5.000 người. Đây là trung tâm hành hương Công giáo lớn nhất cả nước. Không chỉ đồng bào Công giáo, tín đồ các tôn giáo khác cũng cảm nhận được những biến đổi to lớn trong đời sống tôn giáo, nhất là về cơ sở thờ tự, điều kiện tiến hành nghi lễ của tôn giáo mình. Các trung tâm của Phật giáo Hòa Hảo ở miền Tây Nam Bộ, như: An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, hay các trung tâm của đạo Cao Đài, như: Tòa thánh Tây Ninh, Tòa thánh Bến Tre,… đều được giữ gìn, phát triển, đáp ứng nhu cầu của đông đảo tín đồ trong không khí an lành, hướng thiện và là điểm tham quan, du lịch tâm linh của nhiều du khách trong và ngoài nước.
Không chỉ chăm lo cho đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ngày một tốt hơn, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng hết sức có trách nhiệm đối với các hoạt động tôn giáo quốc tế. Việt Nam từng 3 lần tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (Vesak). Đặc biệt, đã tổ chức rất thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2019 tại Chùa Tam Chúc (Kim Bảng, Hà Nam), với sự tham dự của hàng nghìn đại biểu quốc tế thuộc 570 phái đoàn đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có nhiều nguyên thủ, người đứng đầu chính phủ, Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc, cùng hơn 20 đại sứ và đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam,… được bạn bè quốc tế đánh giá hết sức tích cực.
Thực tế trên đã phản ánh sự phong phú, đặc sắc trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam hiện nay. Tự nó cho thấy, mọi chiêu trò lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước Việt Nam, kích động, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc đều bị lật tẩy!
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét