Home » biendao
Thứ Năm, 3 tháng 10, 2019
Nhìn lại lịch sử Việt Nam chiếm hữu, làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (phần 2)
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước,
lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long. Tuy bận việc nội trị, nhưng nhà nước phong kiến
này vẫn tiếp tục chiếm hữu và làm chủ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua
việc tiếp tục sử dụng đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải làm nhiệm vụ khai thác và bảo vệ
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 7/1803, vua Gia Long cho lập lại đội Hoàng Sa: “Lấy cai
cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội
Hoàng Sa” (theo Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 12).
Tháng Giêng năm Ất Hợi (1815), vua Gia Long quyết định: “Sai
bọn Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình…”
(Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 50, tờ 6a).
Sang đời Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho
thủy quân thực hiện...Năm 1833, 1834, 1836, vua Minh Mạng chỉ thị cho Bộ Công
phái người ra Hoàng Sa để dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ... mỗi
thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ dài 4,5 thước, rộng 5 tấc
để dựng mốc chủ quyền, “Vua Minh Mạng đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công sai suất đội
thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu
mốc...”.
Như vậy, suốt từ thời chúa Nguyễn đến thời Tây Sơn rồi triều
đình nhà Nguyễn, đội Hoàng Sa, kiêm quản đội Bắc Hải, đã đi làm nhiệm vụ quản
lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những hoạt động này đã được
các văn bản nhà nước ghi nhận tại châu bản của triều đình nhà Nguyễn, các văn bản
của chính quyền địa phương như tờ lệnh, tờ tư, bằng cấp... hiện đang được lưu
trữ tại các cơ quan lưu trữ nhà nước.
Trong giai đoạn hơn 250 năm lịch sử này, có một chứng cứ hết
sức quan trọng không thể không đề cập đến để chứng minh nhà nước phong kiến Việt
Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với hai quần đảo này. Đó là việc tổ chức
đơn vị hành chính Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy
giờ. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa
(Ngãi), lúc là phủ khi thì là trấn: “Bãi Cát vàng trong phủ Quảng Nghĩa”(Toản tập
Thiên nam tứ chí lộ đồ thư); “Hoàng Sa ở phủ Quảng Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam,
huyện Bình Sơn, xã An Vĩnh" (Phủ biên tạp lụccủa Lê Quí Đôn); sang thời
Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa đổi thành phủ Hòa Nghĩa. Thời triều đình nhà Nguyễn,
Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa thực dân tung hoành trên khắp
các châu lục, xâm chiếm thuộc địa, tiến hành khai thác tài nguyên phục vụ cho sự
phát triển của chính quốc. Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Theo
Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), với tư cách là đại diện của nhà nước Việt Nam về đối
ngoại, chính quyền thuộc địa Pháp đã tiếp tục quản lý, bảo vệvà thực thi chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dưới đây là những
hoạt động chủ yếu, có giá trị pháp lý:
Sau một thời gian tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát tại
thực địa của các nhà khoa học và những cuộc trao đổi giữa những chính khách
Pháp có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ngày 08/03/1925, Toàn quyền
Đông Dương đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận
lãnh thổ thuộc địa của Pháp. Ngày 19/03/1926, Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép
nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa cho Công ty phosphat Bắc kỳ.
Ngày 13/04/1930, Thông báo hạm Malicieuse do thuyền trưởng De
Lattre điều khiển ra quần đảo Trường Sa theo chỉ thị của Toàn quyền Đông Dương
dựng bia chủ quyền, đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo, đá, bãi phụ thuộc. Ngày
23/09/1930, chính phủ Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường quốc về sự kiện
đóng giữ quần đảo Trường Sa theo đúng thủ tục.
Ngày 31/12/1930, Phòng đối ngoại Phủ toàn quyền Đông Dương gửi
báo cáo lên Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp về những hoạt động đóng giữ
đảo Trường Sa và các đảo phụ cận, cũng như các tư liệu khảo cứu về pháp lý bảo
vệ cho sự kiện đóng giữ này.
Ngày 11/01/1931, Thống sứ Nam Kỳ thông báo cho Toàn quyền
Đông Dương về việc sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Ngày 04/01/1932, chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công sứ
Trung Quốc tại Paris khẳng định chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và đề nghị
giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hữu nghị hoặc bằng phương thức trọng
tài quốc tế. Trung Quốc từ chối đề nghị này với lập luận rằng khi vua Gia Long
chiếm hữu quần đảo này, Việt Nam là chư hầu của Trung Quốc.
Ngày 21/12/1933, Thống đốc Nam Kỳ J.Krautheimer ký Nghị định
số 4762-CP sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Ngày 18/02/1937, Pháp lại chính thức yêu cầu Trung Quốc áp dụng
phương thức trọng tài quốc tế để xác định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc
lại khước từ.
Ngày 26/11/1937, Pháp phái kỹ sư trưởng J.Gauthier ra Hoàng
Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ, nghiên
cứu các điều kiện định cư ở quần đảo này.
Năm 1938, Pháp phái các đơn vị bảo an đến đồn trú trên các đảo
và xây dựng một hải đăng, một trạm khí tượng được Tổ chức Khí tượng thế giới
cho đăng ký với số hiệu là 48859 ở đảo Phú Lâm, một trạm vô tuyến điện TSF trên
đảo Hoàng Sa.
Ngày 15/06/1938, Pháp xây xong trạm khí tượng ở đảo Ba Bình,
quần đảo Trường Sa.
Ngày 30/03/1938, vua Bảo Đại ký đạo Dụ số 10 sáp nhập Hoàng
Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi trước đây.
Ngày 15/06/1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brevie ký Nghị định
156-S-V thành lập đơn vị hành chính quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Tháng 6/1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn
trú tại quần đảo Hoàng Sa. Một bia chủ quyền đã được dựng tại đảo Hoàng Sa có
khắc dòng chữ: Republique Francaise - Rayaume d'Annam - Achipel de Paracel
1816- Ide de Pattle 1938.
Chiến tranh thế giới lần thứ 2 xảy ra, Nhật Bản tuyên bố sáp
nhập các quần đảo ở Biển Đông vào các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng. Ngày
04/04/1939, chính phủ Pháp gửi Công hàm phản đối các quyết định nói trên của Nhật
Bản và bảo lưu quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 05/05/1939, Toàn quyền Đông Dương J.Brevie ký Nghị định
số 3282 tách đơn vị hành chính Hoàng Sa thành hai đơn vị: Croissant và các đảo
phụ thuộc; Amphitrite và các đảo phụ thuộc.
Ngày 26/11/1943, Tuyên bố Cairo về việc kết thúc chiến tranh
với Nhật Bản và giải quyết các vấn đề sau chiến tranh, trong đó có vấn đề lãnh
thổ nước khác bị Nhật Bản chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1914).
Ngày 26/07/1945, Tuyên bố Posdam khẳng định các điều khoản của
Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét