Home » biendao
Thứ Ba, 31 tháng 12, 2019
Biển Đông và hiện trạng tranh chấp Biển Đông (phần 2)
Tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở Việt Nam
Trong các cuộc đàm phán gần đây, Trung
Quốc đã trích dẫn một số tư liệu làm bằng chứng lịch sử để ủng hộ cái gọi là
"chủ quyền" của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy nhiên, nguồn gốc của các "tư liệu" này là không rõ ràng và không
chính xác; nội dung giải thích cũng rất không có cơ sở. Những tài liệu được
Trung Quốc trích dẫn không thể chứng minh được việc Trung Quốc đã xác lập chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ khi hai quần đảo này còn là đất
vô chủ. Ngược lại, hàng loạt các tài liệu lịch sử đã xác nhận rằng quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Ví dụ, trong thập kỷ cuối của thế kỷ
XIX, khi các tàu Bellona và Umeji Maru bị chìm ở quần đảo Hoàng Sa và bị ngư
dân Trung Quốc cướp phá, chính quyền tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc tuyên bố rằng
quần đảo Hoàng Sa không thuộc về bất cứ châu huyện nào của tỉnh Hải Nam, không
có bất cứ cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý hai quần đảo này, do đó tỉnh Hải
Nam từ chối trách nhiệm về việc ngư dân đã cướp phá tài sản trên hai con tàu
này. Trong khi đó, tư liệu lịch sử có liên quan do Việt Nam cung cấp đã chứng
minh rằng Việt Nam đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa ngay từ khi
đây còn là đất vô chủ. Ngay từ thế kỷ 17, các triều đại kế tiếp của triều định
phong kiến Nhà Nguyễn ở Việt Nam đã tổ chức các hoạt động khai thác sản vật
trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, thực hiện các cuộc điều tra hành trình
trên biển và đảm bảo an toàn cho các con tàu trong vùng biển của quần đảo Hoàng
Sa. Các chu bản của triều đình Nhà Nguyễn được lưu giữ đến ngày nay đã có ghi
chép rõ ràng về các hoạt động này.
Sau khi Pháp và Việt Nam ký Hiệp ước bảo
hộ vào ngày 15/3/1874 và ngày 6/6/1884, Pháp thay mặt Việt Nam tiếp tục thực
thi chủ quyền đối với Quần đảo Hoàng Sa và tuyên bố phản đối các hành động phi
pháp của Trung Quốc. Pháp đã thực hiện hàng loạt biện pháp động nhằm thực thi
chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, như xây dựng và đưa hệ thống hải đăng vào
hoạt động, thành lập các cơ quan hành chính ở tỉnh Thừa Thiên và cấp giấy khai
sinh cho công dân sinh ra trên quần đảo. Cuộc thăm dò quần đảo Hoàng Sa do Đề đốc
hải quân Trung Quốc Lý Chuẩn tiến hành năm 1909 là hành động xâm phạm chủ quyền
của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và đang được chính quyền bảo hộ Pháp
thay mặt thực thi. Đối với yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Quần đảo
Hoàng Sa, Pháp đã đề nghị Trung Quốc giải quyết thông qua một cơ quan trọng tài
quốc tế (Pháp đã gửi Công hàm cho Trung Quốc vào ngày 18/2/1937), song Trung Quốc
đã từ chối đề xuất này.
Năm 1946, lợi dụng bối cảnh vừa kết thúc
Chiến tranh thế giới II, chính quyền Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc đã
xâm chiếm trái phép đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Năm 1947, Pháp ra
tuyên bố phản đối cuộc xâm lược của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, yêu cầu hai
bên phải đàm phán và đệ trình lên một tổ chức trọng tài quốc tế để giải quyết,
nhưng chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tiếp tục từ chối đàm phán. Sau đó, chính phủ
Tưởng Giới Thạch đã rút khỏi đảo Phú Lâm.
Năm 1956, khi quân đội Pháp phải rút khỏi
Đông Dương theo các điều khoản của Hiệp định Genève và chính phủ Nam Việt Nam không
kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã triển khai quân
đội chiếm đóng trái phép các đảo ở phía đông quần đảo này.
Năm 1974, lợi dụng sự tan rã của quân đội
Việt Nam Cộng hòa và Lực lượng quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền
Nam Việt Nam, quân đội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã xâm lược các đảo do Việt
Nam Cộng hòa chiếm đóng ở phía tây quần đảo Hoàng Sa.
Tất cả các hành động xâm lược nói trên của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ từ Chính phủ Việt
Nam Cộng hòa. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chủ thể của quan hệ
quốc tế, thay mặt quốc gia Việt Nam quản lý các lãnh thổ phía Nam Việt Nam theo
Hiệp định Genève 1954, đã có tiếng nói mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh ngoại giao
và dư luận.
Năm 1988, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
huy động quân đội chiếm giữ 6 thực thể thuộc bãi cạn ở phía tây bắc quần đảo
Trường Sa, và sau đó đã cải tạo, xây dựng những thực thể này thành căn cứ quân
sự, giống như pháo đài trên biển.
Năm 1995, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một
lần nữa điều quân đến chiếm Đá Vành Khăn ở phía đông nam quần đảo Trường Sa. Họ
hiện đang sử dụng sức mạnh quân sự để bao vây và chiếm đóng bãi Cỏ Mây nằm gần
Đá Vành Khăn ở phía đông quần đảo Trường Sa ở Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay, Trung Quốc (bao gồm
cả Đài Loan) đã sử dụng vũ lực để chiếm giữ tổng cộng chín hòn đảo, rạn san hô
và bãi cạn ở quần đảo Trường Sa. Đài Loan Trung Quốc đã chiếm hòn đảo lớn nhất
của quần đảo Trường Sa, Đảo Ba Bình, cùng rạn san hô Bãi Bàn Than thuộc quần đảo
này.
Với việc Tổng thống Philippines Elpidio
Quirino, tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa thuộc Philippines do quần đảo này nằm
gần Philippines, Philippines bắt đầu can dự vào tranh chấp chủ quyền quần đảo
Trường Sa.
Từ năm 1971 đến năm 1973, Philippines đã
điều quân chiếm đóng 5 đảo, từ năm 1977 đến 1978 chiếm đóng 2 đảo khác thuộc quần
đảo Trường Sa.. Năm 1980, Philippines tiếp tục chiếm đóng đảo Công Đo ở phía
nam quần đảo Trường Sa. Đến nay, Philippines đã chiếm 10 thực thể trong quần đảo
Trường Sa, bao gồm 7 hòn đảo, rạn san hô và 3 bãi cát.
Đối với Malaysia, năm 1971, chính phủ Việt
Nam Cộng hòa đã bác bỏ chủ quyền của Malaysia ở quần đảo Trường Sa và nhấn mạnh
quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, và bất kỳ hành vi vi phạm chủ quyền
nào của Việt Nam tại quần đảo này đều bị coi là vi phạm luật pháp quốc tế.
Vào tháng 12/1979, chính phủ Malaysia
công bố bản đồ Malaysia, trong đó bao gồm phần phía nam của quần đảo Trường Sa,
cụ thể là hai hòn đảo của Việt Nam có tên là Đảo An Bang và Bãi Thuyền Chài, từng
do Quân đội Cộng hòa Việt Nam chiếm giữ.
Từ năm 1983 đến 1984, Malaysia đã điều
quân tới chiếm ba bãi cạn ở quần đảo Trường Sa, bao gồm Hoa Lau, Kiệu Ngựa và Kỳ
Vân. Năm 1988, họ chiếm thêm hai bãi cạn là Én Đất và Thám Hiểm. Cho đến nay,
Malaysia đã chiếm 7 thực thế là các rạn san hô ở phía nam quần đảo Trường Sa.
Đối với Brunei, mặc dù được coi là một
bên trong tranh chấp liên quan đến quần đảo Trường Sa, Brunei không thực sự chiếm
một thực thể cụ thể nào thuộc quần đảo này. Yêu sách chủ quyền của đất nước là
vùng biển và thềm lục địa thể hiện trên bản đồ đất nước chồng lấn với phần phía
nam của quần đảo Trường Sa.
Như vậy, từ năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng
vũ lực để xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đối với quần đảo
Trường Sa, Việt Nam đang đóng quân và quản lý 21 hòn đảo, Trung Quốc chiếm giữ
bằng vũ lực 7 thực thể, Đài Loan chiếm đảo Ba Bình và bãi san hô Bàn Than.
Philippines chiếm 10 rạn san hô và bãi cạn, Malaysia chiếm 7 đảo, đá ngầm và
bãi cạn.

- Lịch sử, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển của đảo Cồn Cỏ
- 白龙尾岛的自然条件与发展历史
- Điều kiện tự nhiên và lịch sử phát triển của đảo Bạch Long Vĩ
- 侵犯越南黄沙长沙主权的行为均为无效
- Mọi hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vô giá trị
- 越南努力促进海洋经济跨产业集群快速和可持续发展
- Phát triển nhanh và bền vững các cụm liên kết ngành kinh tế biển
- 越南为联合国国际法委员会作出积极贡献
- Việt Nam đóng góp tích cực tại Uỷ ban Luật quốc tế của Liên hợp quốc
- 为共同的未来保护海洋
- Bảo vệ đại dương vì tương lai chung
- 越南承诺促进蓝海可持续发展
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét