Home » thoisu
Thứ Ba, 16 tháng 6, 2020
Bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí cho đại đa số người dân
QĐND
- Tự do ngôn luận, tự do báo chí là những quyền cơ bản của con người đã được Việt
Nam cam kết thực hiện theo những nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về
nhân quyền. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch, phản
động, bất mãn chính trị thường lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ
xã hội chủ nghĩa (XHCN).
1.
Những năm gần đây, vào dịp Ngày Tự do báo chí thế giới (3-5) hằng năm, hay kỷ
niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6), trên nhiều trang mạng có nội dung
xấu độc và trên trang tiếng Việt của một số cơ quan truyền thông nước ngoài thiếu
thiện chí với Việt Nam thường xuất hiện các ý kiến, bài viết xuyên tạc tình
hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Trong đó, cái gọi là “Tổ chức
phóng viên không biên giới” không những đưa ra bảng xếp hạng hết sức sai trái về
tự do báo chí ở Việt Nam, mà còn công bố danh sách và trao giải thưởng “Anh
hùng thông tin” cho một số đối tượng người Việt Nam đã lợi dụng tự do, dân chủ
chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. “Tiền hô hậu ủng” cho tổ chức phi chính phủ
này là những đối tượng được dán mác “nhà đấu tranh dân chủ, nhân quyền”, “nhà
báo tự do” trong nước tung ra nhiều bài viết, phát ngôn xuyên tạc trắng trợn
tình hình tự do báo chí của Việt Nam.
Không
chỉ vậy, vào những thời điểm các cơ quan chức năng, bảo vệ pháp luật của Việt
Nam khởi tố vụ án, khởi tố các đối tượng lợi dụng tự do, dân chủ tuyên truyền,
chống phá chính quyền Nhà nước, thì các thế lực thù địch bên ngoài và những người
còn thù hằn với chế độ lại rêu rao đó là "hành động bóp nghẹt tự do ngôn
luận", "triệt tiêu quyền tự do báo chí", hoặc "ra sức ngăn
cản những người bất đồng chính kiến"...
2.
Là quốc gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam đã sớm tham
gia, ký kết các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ bản của con người và
quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ngay sau khi
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội
thông qua ngày 9-11-1946 đã hiến định tại Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có
quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng;
tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được
hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được hiến
định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định”.
Để
bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được hiện diện trong thực
tiễn cuộc sống, năm 2016, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin
và Luật Báo chí. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: Mọi công
dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận
thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông
tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền
núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận
thông tin. Điều 10 của luật này cũng quy định công dân có quyền tự do tiếp cận
thông tin được cơ quan nhà nước công khai, đồng thời được yêu cầu cơ quan nhà
nước cung cấp thông tin.
Về
quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân được quy định tại Điều 11 Luật
Báo chí năm 2016 với 3 nội dung cụ thể, gồm: Phát biểu ý kiến về tình hình đất
nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức và cá nhân. Đặc biệt, Điều
13 luật này nêu rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền
tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng
vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được
Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn
luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức và công dân; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và
phát sóng”.
Như
vậy, về mặt pháp lý, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận
thông tin của công dân ở Việt Nam đã được quy định toàn diện, đầy đủ, với những
nội dung cụ thể, dễ hiểu, dễ áp dụng, dễ thực hiện trong cuộc sống.
3.
Trên thực tế, không riêng ở Việt Nam, mà hầu hết các quốc gia tuy có cách tiếp
cận không giống nhau về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng đều có một
nguyên tắc cơ bản là việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí phải
phù hợp với tình hình, điều kiện lịch sử, văn hóa, trình độ dân trí, thể chế
chính trị của mỗi nước và không được phép lợi dụng quyền cơ bản này để xâm hại
lợi ích quốc gia-dân tộc, làm phương hại danh dự, nhân phẩm người khác và ảnh
hưởng tiêu cực đến đạo đức cộng đồng, trật tự xã hội. Điều 11, Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp đã quy định: “Tự do trao đổi suy nghĩ
và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ
công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu
trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Nước Mỹ
tuy không ban hành luật riêng về báo chí, nhưng có nhiều điều luật khác của quốc
hội, quy định có tính pháp lý của tòa án cũng đưa ra những giới hạn nhất định đối
với báo chí, đối với quyền và trách nhiệm của công dân liên quan đến báo chí nhằm
tránh xâm hại đến an ninh quốc gia. Khoản 2, Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế nhân
quyền năm 1948 nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng
phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của
người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo
lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa
mãn”.
Thế
giới từng có những bài học về việc báo chí đi quá giới hạn tự do cho phép, nên
phải giá rất đắt. Tháng 9-2005, tờ báo Jyllands-Posten (Đan Mạch) đăng tải 12 bức
tranh biếm họa về đấng tiên tri Muhammad của Hồi giáo. Sau đó, bức tranh biếm họa
này tiếp tục xuất hiện trên nhiều tờ báo ở Pháp, Na Uy, Hà Lan, Italy, Tây Ban
Nha. Vụ việc đã gây nên một làn sóng phẫn nộ mạnh mẽ của những người theo đạo Hồi
trên toàn thế giới dẫn đến nhiều hậu quả xấu. Tháng 7-2011, tờ News of the
World (Tin tức thế giới) của nước Anh đã phải đình bản vĩnh viễn sau 168 năm hoạt
động vì bị công chúng cáo buộc nhiều phóng viên bản báo này đã đột nhập điện
thoại của hàng nghìn người dân để “săn tin”. Nhắc lại hai ví dụ trên để thấy,
trên thế giới không có quốc gia nào cho phép tự do báo chí, tự do ngôn luận “đứng
trên, đứng ngoài” luật pháp và xâm hại đến an ninh quốc gia. Nếu vi phạm điều
này, báo chí sẽ bị công chúng tẩy chay và bị những chế tài xử lý thích hợp.
4.
Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn
nhất định. Giới hạn này đặt ra để bảo đảm quyền tự do chính đáng cho số đông mọi
người, chứ không phải cho một nhóm ít người nào đó nói năng bừa bãi, phát ngôn
bạt mạng, thích gì viết đấy, nói và viết chỉ vì động cơ cá nhân ích kỷ, thiên vị
mà không vì sự ổn định, đồng thuận chung của xã hội, cộng đồng.
Chẳng
hạn như trong đợt đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam không chỉ đối mặt với loại virus nguy hiểm này, mà còn phải đối mặt với
vấn nạn tin giả tràn lan trên mạng xã hội. Phần lớn những tin giả này xuất phát
từ những người lợi dụng tự do ngôn luận để lan truyền thông tin sai trái, thất
thiệt, tác động tiêu cực đến dư luận xã hội và an ninh truyền thông. Do đó,
ngăn chặn, xử lý những đối tượng gây ra nạn “hoang tin” trên mạng xã hội chính
là góp phần bảo đảm sự trong sạch của môi trường thông tin, qua đó góp phần giữ
vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thành công của Việt Nam trong
công tác phòng, chống, kiểm soát đại dịch Covid-19 được cộng đồng quốc tế ghi
nhận, đánh giá cao, có một phần bắt nguồn từ việc Đảng, Nhà nước Việt Nam và
các cấp, các ngành đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận
cao trong các tầng lớp nhân dân; đồng thời phát hiện, ngăn chặn kịp thời những
thông tin sai trái về dịch bệnh trên mạng xã hội.
Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc
bảo đảm, thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam là một trong
những giải pháp quan trọng để khơi dậy, phát huy ý chí, nguyện vọng, trí tuệ, sức
mạnh tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác, trong quá trình hội nhập
quốc tế, Việt Nam luôn có tinh thần cầu thị, tích cực tiếp thu, học hỏi, tham
khảo những kinh nghiệm tiến bộ của các quốc gia khác để thực hiện ngày càng tốt
hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho đại đa số người dân.
Để
bảo đảm quyền lợi, tự do chính đáng cho số đông công dân, chúng ta cũng không
chủ quan, lơ là, mà phải luôn đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận diện, kiên quyết
vạch trần, kịp thời bác bỏ mọi âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, bất
mãn chính trị cố tình lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí nhằm đưa ra những
thông tin sai trái, xuyên tạc, tác động tiêu cực dư luận xã hội, xâm hại an
ninh truyền thông quốc gia, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam.
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét