Home » thoisu
Thứ Tư, 5 tháng 8, 2020
Kinh tế thị trường không phải “hàng độc quyền” của chủ nghĩa tư bản
QĐND - Trong quá trình đóng góp cho văn
kiện Đại hội XIII của Đảng, vấn đề xây dựng kinh tế thị trường (KTTT) định hướng
xã hội chủ nghĩa (XHCN) giành được nhiều sự quan tâm. Các thế lực thù địch, chống
phá Việt Nam và một số cá nhân có quan điểm sai trái cho rằng, KTTT là của chủ
nghĩa tư bản (CNTB), vì thế không thể kết hợp KTTT với định hướng XHCN.
Họ cho rằng KTTT với định hướng XHCN như
“nước với lửa”, khi ghép định hướng XHCN vào KTTT thì sẽ tạo ra một “thân hình
dị dạng”. Từ đó, họ kết luận rất xằng bậy rằng, Việt Nam phải từ bỏ việc xây dựng
nền KTTT định hướng XHCN, vì nền KTTT kiểu này là không hề tồn tại và xây dựng
nền KTTT thực chất là đang đi theo con đường của CNTB. Vậy thực chất KTTT có phải
là của CNTB không? Có thể ghép KTTT với định hướng XHCN được không?
Thực tế lịch sử và hiện tại đã cho thấy,
KTTT không phải là “con đẻ”, là sản phẩm thuộc về CNTB. CNTB không sinh ra kinh
tế hàng hóa. Mà kinh tế hàng hóa đã xuất hiện ở giai đoạn đồng tiền còn chưa xuất
hiện. Ở giai đoạn sơ khai, do chưa có tiền tệ nên trao đổi hàng hóa mang hình
thức trực tiếp, gọi là hàng đổi hàng. Người sản xuất gạo và cần thịt có thể gặp
người sản xuất thịt và cần gạo để đổi trực tiếp gạo lấy thịt-đây đã là kinh tế
hàng hóa. Do đó, KTTT với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải
là sản phẩm riêng của CNTB mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại qua
nhiều thời kỳ. KTTT đã có mầm mống từ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành
trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản. Trước CNTB, KTTT
còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong CNTB nó đạt đến trình độ cao.
Điều đó khiến người ta nhầm tưởng, nghĩ rằng KTTT là sản phẩm riêng của CNTB và
cũng là cách thức để các thế lực thù địch tuyên truyền, chống phá tính “định hướng
XHCN” trong KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Thực tế cho thấy, KTTT không phải là con
đường độc đạo để phát triển thành tư bản chủ nghĩa. KTTT cũng không có một mô
hình duy nhất mà có nhiều mô hình khác nhau. Hiện nay, KTTT có 3 mô hình chủ yếu
là: Mô hình KTTT tự do; mô hình KTTT-xã hội; mô hình KTTT định hướng XHCN (ở Việt
Nam) hay KTTT XHCN (ở Trung Quốc). Có thể nói 3 mô hình KTTT nói trên đang bao
trùm tất cả các nền kinh tế trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ (như Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Triều Tiên).
Thứ nhất là mô hình KTTT tự do. KTTT
trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mô hình thị trường tự do, được thực
hiện ở hầu hết các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình này
đề cao vai trò của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và cạnh tranh tự
do. Trong mô hình KTTT tự do, sự can thiệp điều tiết của nhà nước vào các quá
trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển kinh tế chủ yếu do
khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế cạnh
tranh tự do). Đây là lý thuyết do nhà kinh tế học Adam Smith đưa ra từ năm
1776. Ông cho rằng, trong nền KTTT tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan
tâm và xu hướng lợi ích riêng cho cá nhân mình, và chính các hành động của những
cá nhân này lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho toàn cộng
đồng thông qua một "bàn tay vô hình". Ông biện luận rằng, mỗi một cá
nhân đều muốn thu lợi lớn nhất cho mình sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng,
điều này giống như việc cộng toàn bộ lợi ích của từng cá nhân lại.
Trong KTTT tự do thì chức năng chính của
nhà nước là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn
định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận
hành thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào
hệ thống phúc lợi xã hội nhằm giảm tình trạng bất bình đẳng, tạo lập công bằng
xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại thị trường tuy vẫn được coi trọng nhưng
không nhiều như ở các mô hình khác.
Người cổ vũ nhiệt thành cho quan điểm tự
do hóa nền kinh tế một cách tối đa là nữ Thủ tướng Anh Margaret Thatcher. Vào
những năm 80 của thế kỷ trước, bà đã đưa ra chủ trương loại bỏ một nhà nước vì
phúc lợi xã hội, tức là đưa nền kinh tế vào quỹ đạo của một chủ nghĩa tự do mới
và mang màu sắc bảo thủ của thế kỷ 19: Thị trường nhiều hơn, nhà nước ít can
thiệp hơn. Hậu quả là mô hình này gây ra những tác động nghiêm trọng như tình
trạng bất bình đẳng xã hội và tỷ lệ người nghèo tăng, chất lượng dịch vụ chăm
sóc sức khỏe và giáo dục giảm, các thị trường tài chính quốc tế trở nên bất ổn
hơn...
Thả cho thị trường tự do, tự điều tiết,
thiếu công cụ điều tiết phù hợp cũng dễ gây ra nguy cơ kinh tế và khi có nguy
cơ thì rất khó giải quyết. Việc quá đề cao tự do cá nhân trong khi tính tự giác,
ý thức của cá nhân chưa tốt sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá nhân, ngăn cản những
hành động chung của cộng đồng, nhất là trong những tình huống ngặt nghèo. Ví
như dịch Covid-19 đã cho thấy những bất ổn trong cách thức vận hành xã hội
phương Tây khi đối phó với dịch bệnh, thảm họa. Các cuộc nguy cơ kinh tế, sự bất
bình đẳng xã hội làm cho những nhà lãnh đạo cổ vũ một cách cực đoan cho KTTT tự
do tại Mỹ và châu Âu vỡ mộng. Và hiện nay, các nước đều nhìn nhận ra vai trò
thiết yếu của nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế.
Thứ hai là mô hình KTTT-xã hội. Mô hình
này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước Tây-Bắc Âu, điển hình là Đức
(quê hương của mô hình KTTT-xã hội), Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan. Xét theo
tính chất đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở một số nước khác, như: Đan Mạch,
Hà Lan, Pháp và Bỉ với những mức độ khác nhau.
Về nguyên tắc, mô hình KTTT-xã hội thừa
nhận các yếu tố cơ bản phổ biến của KTTT. Tuy nhiên, so sánh với mô hình KTTT tự
do, mô hình này có hai đặc trưng nổi bật: Một là, coi các mục tiêu xã hội và
phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và cho người
lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân...) là mục tiêu của chính
quá trình phát triển KTTT. Hai là, nhà nước dẫn dắt nền KTTT phát triển không
chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và
hiệu quả xã hội.
Với những đặc trưng trên, tuy mô hình
KTTT-xã hội là một biến thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất
yếu của sự phát triển. Đó là: Đến một trình độ phát triển nhất định, trong những
điều kiện cụ thể, tự KTTT không thể giải quyết có hiệu quả tất cả các vấn đề
phát triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều
đó, trong cơ chế vận hành của nền KTTT, cần có thêm “bánh lái” để định hướng “động
cơ” thúc đẩy phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt không chỉ nhiệm vụ
tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người.
Việc triển khai mô hình KTTT-xã hội trên
thực tế đã mang lại những kết quả phát triển tích cực, không chỉ ở một vài nước,
tại một vài thời điểm riêng lẻ mà ở hàng loạt nước và kéo dài trong nhiều thập
niên. Điều này xác nhận tính tất yếu của xu hướng phát triển mô hình KTTT-xã hội.
Tính tất yếu đó cũng được thể hiện ở mô hình KTTT đang được triển khai ở Việt
Nam và Trung Quốc.
Thứ ba là mô hình KTTT định hướng XHCN.
Loại mô hình KTTT này đang được thực thi chỉ ở hai nước (Việt Nam-KTTT định hướng
XHCN; Trung Quốc-KTTT XHCN) với thời gian khoảng 30-40 năm. Tuy vậy, các kết quả
thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử
to lớn. Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ của mô hình kinh tế tập
trung bao cấp, vốn phủ nhận vai trò của KTTT trong quá trình phát triển ở các
nước nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Mô hình này đã chứng minh được tính hiệu quả,
đồng thời, khẳng định tính tất yếu và phổ biến của KTTT với tư cách là một giai
đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế. Mô hình KTTT định
hướng XHCN vẫn đang trong quá trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất.
Bản thân mô hình xây dựng KTTT của hai nước XHCN là Việt Nam và Trung Quốc cũng
khác nhau.
Tại Trung Quốc, khung thể chế cơ bản của
nền KTTT XHCN, bao gồm các yếu tố là: Nền KTTT XHCN mang tính đa dạng sở hữu, với
các đặc trưng: 1) Chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể và nhiều
chế độ sở hữu khác cùng phát triển; 2) Hình thức cơ bản của chế độ công hữu là
chế độ cổ phần. Người lao động tự chủ lựa chọn việc làm, thị trường điều tiết
việc làm và chính phủ thúc đẩy việc làm. Nhà nước kiểm soát vĩ mô, chức năng quản
lý kinh tế của chính phủ chủ yếu là phục vụ chủ thể thị trường và sáng tạo môi
trường phát triển tốt đẹp. Phải dựa vào pháp luật để bảo vệ các quyền sở hữu
tài sản, kiện toàn quy tắc giao dịch và chế độ giám sát quyền sở hữu tài sản. Đảng
Cộng sản Trung Quốc xác định muốn phát triển KTTT thì phải có kinh tế tư nhân,
có chế độ sở hữu tư nhân. Nhưng để có nền kinh tế XHCN thì phải có kinh tế nhà
nước và chế độ công hữu. Vì vậy, muốn có nền KTTT XHCN thì chế độ kinh tế cơ bản
phải bao gồm chế độ công hữu và chế độ tư hữu (hay rộng hơn, kinh tế phi công hữu).
Thực tiễn phát triển và lý luận kinh điển
của C.Mác đều khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế hàng hóa hay KTTT
trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, đối với bất cứ quốc
gia nào chưa trải qua KTTT, để giải quyết được vấn đề phát triển, trước hết phải
phát triển KTTT theo đúng nghĩa; phải tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế
phát huy cao nhất năng lực phát triển của thị trường để đạt hiệu quả kinh tế
cao nhất. Chỉ trên cơ sở đó, xét theo mục tiêu chiến lược, mới thoát khỏi tình
trạng lạc hậu, nhờ đó, có điều kiện vật chất và tinh thần để đáp ứng các mục
tiêu xã hội và nhân văn.
Tuy nhiên, KTTT không phát triển theo một
phương án duy nhất là phát triển thành kinh tế TBCN, cũng không theo một mô
hình đơn nhất là thị trường tự do. Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô
hình phát triển KTTT khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện
xác định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia-dân tộc. Một quốc gia đi sau
không nhất thiết, và cũng không thể vận dụng cứng nhắc các nguyên lý; cũng
không nhất thiết phải rập khuôn các mô hình KTTT có sẵn ở đâu đó, dù là mô hình
hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù của mình.
Tại Việt Nam, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN để giải quyết vấn đề phát triển
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Trong quá trình tiến hóa về mô hình của
KTTT trên thế giới, các mô hình xuất hiện sau đều phản ánh một xu hướng chung
trong sự phát triển của KTTT. Đó là, ngày càng nhấn mạnh các mục tiêu xã hội-con
người; thừa nhận vai trò định hướng, tổ chức và điều tiết phát triển của nhà nước
khi tính tự giác của xã hội chưa cao.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét