Home » hoptacdoingoai
Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020
Ngoại giao Việt Nam: 75 năm đồng hành cùng dân tộc
Ngày 28-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
Sắc lệnh thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sáng lập
nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Trong 75 năm phát triển, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam luôn
đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngoại giao in đậm dấu ấn
trên những chặng đường của đất nước, góp phần giành và giữ vững độc lập, đóng
góp trong công cuộc kháng chiến thành công, thống nhất đất nước và trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (năm 1945), dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và các đồng chí
lãnh đạo Đảng tiền bối, ngoại giao đã giữ vai trò tiên phong trong việc giữ vững
độc lập nước nhà và bảo vệ thành công chính quyền cách mạng còn non trẻ. Những
sách lược, quyết sách táo bạo, khôn khéo của ngoại giao, như “hòa để tiến”,
“phân hóa kẻ thù”, cùng các nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “đặt lợi
ích dân tộc lên hàng đầu”…, đã giúp cách mạng nước ta vượt qua được những tình
huống hiểm nghèo “ngàn cân treo sợi tóc”. Đồng thời, ngoại giao đã đi đầu trong
việc vận động các nước công nhận nền hòa bình và độc lập của Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, nền ngoại giao cách mạng Việt Nam đã trở thành một mặt trận
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối
cách mạng, sát cánh cùng mặt trận quân sự để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi.
Ngoại giao đã đi tiên phong trong việc tạo ra một mặt trận quốc tế, ủng hộ sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngoại giao giương cao ngọn cờ
hòa bình, độc lập dân tộc, kiên trì kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
pháp lý, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em, mở rộng quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa, hình thành mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta. Nhờ đó và cùng
với thắng lợi trên chiến trường, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào
bàn đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Chiến thắng của ngoại giao trên bàn đàm
phán ở Giơ-ne-vơ năm 1954 và ở Pa-ri năm 1973 là những dấu mốc quan trọng trên
chặng đường giành lại độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Trong công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước,
ngoại giao là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đấu tranh đưa đất nước ta
thoát khỏi thế bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế. Đồng thời,
ngoại giao đã tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn tại giữa Việt Nam với
các nước láng giềng, nước lớn, tạo ra những đột phá trong quan hệ đối ngoại của
nước ta, trong đó có giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia và bình thường hóa quan hệ
với các nước láng giềng, nước lớn.
Những chặng đường vẻ vang của ngoại giao
cách mạng Việt Nam được Bác Hồ và các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng dẫn dắt,
góp phần định hình bản sắc, phong thái, phương pháp của ngoại giao Việt Nam. Từ
nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “độc lập, tự chủ”, “đặt lợi ích dân tộc
lên hàng đầu” đến phương châm “thêm bạn, bớt thù” và phương pháp ngoại giao tâm
công, tranh thủ thời cơ, kiến tạo thời cơ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tất cả đã trở thành những bài học kinh điển, vô giá về ngoại giao
cách mạng mang đậm phong cách Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
sâu rộng, nhiệm vụ đối ngoại đặt ra là tiếp tục tạo môi trường và điều kiện quốc
tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Trên cơ sở kế thừa nền tảng và kinh nghiệm đối ngoại của thời kỳ
trước, ngoại giao đóng vai trò tiên phong, mở đường, phát triển và đưa quan hệ
hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đi vào chiều
sâu, mở rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác mới, thu hút các nguồn lực
cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định,
giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
Ngoại giao đã góp phần quan trọng trong
việc mở rộng và đưa vào chiều sâu quan hệ đối ngoại của ta với các nước. Đến
nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành
viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác
chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng
tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu
vực và trên thế giới. Nỗ lực triển khai định hướng chiến lược tích cực, chủ động
hội nhập quốc tế, ngành ngoại giao đã tham mưu cho Đảng và Chính phủ các biện
pháp, bước đi chiến lược đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều
liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, với việc ký kết nhiều hiệp định thương mại
tự do (FTA) quan trọng như CPTPP, EVFTA..., qua đó tạo động lực to lớn cho phát
triển. Bên cạnh đó, ngành ngoại giao tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ,
ngành thúc đẩy hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực an ninh - quốc phòng, xã hội,
văn hóa, khoa học - công nghệ...
Ngoại giao đa phương trưởng thành mạnh mẽ
và đạt những thành tựu quan trọng, khẳng định Việt Nam là một thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không chỉ góp phần nòng cốt trong việc tổ chức
thành công nhiều trọng trách quốc tế lớn, nhất là chủ nhà của Hội nghị cấp cao
Pháp ngữ (năm 1997), ASEAN (các năm 1998, 2010, 2020), ASEM (năm 2005), APEC
(các năm 2006, 2017), ngoại giao còn chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng,
sáng kiến, góp phần giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới. Đặc biệt,
ngoại giao Việt Nam đóng góp quan trọng trong việc tổ chức Hội nghị cấp cao Hoa
Kỳ - Triều Tiên lần hai tại Hà Nội, qua đó thúc đẩy đối thoại, hòa giải, hòa
bình trên bán đảo Triều Tiên, được các đối tác và cộng đồng quốc tế đánh giá rất
cao. Việt Nam tham gia, đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc
tế quan trọng, nhất là ASEAN, ASEM, APEC, Liên hợp quốc, G7, G20...
Ngoại giao cùng quốc phòng - an ninh góp phần
hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong
đó có nỗ lực đàm phán, xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị và
phát triển với Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc. Ngoại giao phối hợp chặt chẽ với
quốc phòng và an ninh trong công cuộc “giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước còn
chưa nguy”, nhất là đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền của nước ta ở
Biển Đông.
Trong quá trình phát triển, ngoại giao
ngày càng gắn kết với người dân, các địa phương và doanh nghiệp. Nhiều hoạt động
ngoại giao kinh tế thiết thực được triển khai, góp phần mở rộng thị trường, đối
tác cho doanh nghiệp. Ngoại giao văn hóa quảng bá hình ảnh Việt Nam giàu bản sắc,
đổi mới thành công; đồng thời vận động để đến nay 39 di sản của Việt Nam được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, qua đó vừa đóng góp cho việc bảo vệ
các giá trị của nhân loại, vừa tạo nguồn lực cho phát triển ở nhiều địa phương.
Ngành ngoại giao cũng triển khai tích cực, hiệu quả công tác bảo hộ công dân và
công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Kiên định nguyên tắc cơ bản là độc lập,
tự chủ, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc lên trên hết, ngoại giao luôn sát
cánh cùng các “binh chủng đối ngoại”, như đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội, đối
ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng - an ninh và đối ngoại của từng bộ, ngành,
địa phương triển khai hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, cùng phấn
đấu vì mục tiêu chung là phục vụ tốt nhất các lợi ích của đất nước, nâng cao vị
thế của Việt Nam. Lực lượng cán bộ ngoại giao đã không ngừng lớn mạnh, từ 20
cán bộ trong những ngày đầu thành lập đã phát triển thành đội ngũ hàng nghìn
cán bộ ngày càng chuyên nghiệp, tinh nhuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
tinh thông nghiệp vụ. Từ chỗ chỉ có ba cơ quan đại diện ngoại giao ở nước
ngoài, đến nay mạng lưới các cơ quan đại diện đã mở rộng lên 94 cơ quan, ở khắp
các châu lục.
Vận dụng khéo léo những bài học ngoại
giao của thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và tái thiết đất nước sau chiến
tranh, ngoại giao thời kỳ đổi mới đã đúc rút nhiều bài học quý giá. Đó là các
bài học về xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu bền với các nước
láng giềng, quan tâm xử lý khôn khéo quan hệ với các nước lớn, phối hợp thường
xuyên, chặt chẽ giữa các “binh chủng đối ngoại”, phát huy “sức mạnh mềm” của
dân tộc để nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của đất nước.
Thế giới đang chuẩn bị bước sang thập
niên thứ ba của thế kỷ 21, với những chuyển biến sâu sắc, mau lẹ và khó lường.
Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là nguyện vọng của các dân tộc trên thế giới,
song đang gặp nhiều thách thức, nhất là tình trạng kinh tế thế giới suy thoái,
cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, thách thức an ninh truyền thống và phi
truyền thống như dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước. Đại
dịch Covid-19 khiến biến động cục diện quốc tế bị đẩy nhanh hơn, tác động trực
tiếp, nhiều chiều tới môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam, với thời
cơ và thách thức đan xen.
Trong bối cảnh mới, ngành ngoại giao tiếp
tục phát huy vai trò tiên phong tạo dựng môi trường hòa bình, thuận lợi cho
phát triển, nâng cao vị thế đất nước. Tiếp tục xây dựng nền ngoại giao hiện đại
cả về lực lượng, nội dung và phương thức hoạt động, trên cơ sở kế thừa truyền
thống ngoại giao Việt Nam và tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, ngành ngoại giao
cần chủ động, tích cực thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo, năng động thích ứng
những chuyển biến nhanh của tình hình, để hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Với thế và lực mới của đất nước, phát
huy truyền thống vẻ vang và thành tựu to lớn trong 75 năm qua, tiếp bước tinh
thần ngoại giao đồng hành cùng đất nước, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng
sự nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Việt Nam tiếp tục vững bước
tiến lên, viết tiếp những trang sử vàng của nền ngoại giao hiện đại, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PHẠM BÌNH MINH Ủy viên Bộ Chính trị, Phó
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét