Không có "lao động cưỡng bức" trong trại giam ở Việt Nam
Tổ chức cho phạm nhân lao động trong trại
giam thể hiện chính sách nhân văn của Đảng, Nhà nước Việt Nam nhằm giáo dục, cải
tạo người phạm tội, giúp họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội. Đồng
thời, việc dạy nghề, lao động cũng là cách thức định hướng nghề nghiệp cho phạm
nhân để khi chấp hành xong án phạt tù có thể tìm được việc làm, ổn định cuộc sống,
sớm hòa nhập cộng đồng. Có thể khẳng định, lao động trong trại giam tuân thủ
các quy định của pháp luật quốc tế và không có cái gọi là “lao động cưỡng bức”
trong trại giam ở Việt Nam.
Pháp
luật quốc tế về lao động cưỡng bức
Công ước 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt
buộc được Hội nghị toàn thể của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thông qua ngày
28-6-1930 và đến nay đã có 175 nước phê chuẩn. Ngày 29-1-2007, Việt Nam đã gia
nhập Công ước này. Công ước 29 chính thức ghi nhận khái niệm lao động cưỡng bức
hoặc bắt buộc (gọi tắt là lao động cưỡng bức). Theo khoản 1 Điều 2 Công ước, cụm
từ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc là: “Tất cả các công việc hay dịch vụ mà một
người thực hiện dưới sự đe doạ phải chịu một hình phạt và vì hình phạt này người
đó không tự nguyện làm việc”.
Từ định nghĩa trên ta thấy, bất kỳ một
người nào đó đều có thể trở thành chủ thể của lao động cưỡng bức khi họ thực hiện
một công việc hay một dịch vụ nhất định, bất kể họ là nam giới hay nữ giới, trẻ
nhỏ hay người già; họ có thể là người có hay không có chuyên môn đối với công
việc, dịch vụ đó... Theo Công ước 29, một hoạt động lao động được coi là lao động
cưỡng bức khi gồm tiêu chí sau: Thứ nhất, một người thực hiện một công việc hoặc
một dịch vụ cho người khác; Thứ hai, người này không tự nguyện thực hiện công
việc hoặc dịch vụ đó; Thứ ba, người thực hiện công việc hoặc dịch vụ đó bị đe
doạ (bản thân họ hoặc thân nhân của họ) sẽ phải chịu một hình phạt nào đó nếu
không tiến hành công việc hoặc dịch vụ đó.
Tuy nhiên, trong Công ước này, thuật ngữ
“lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc” không bao gồm 5 trường hợp cụ thể sau đây (5
trường hợp “ngoại lệ”): Mọi công việc hoặc dịch vụ buộc phải làm theo các đạo
luật về nghĩa vụ quân sự bắt buộc và trong những công việc có tính chất quân sự
thuần tuý; Mọi công việc hoặc dịch vụ thuộc những nghĩa vụ công dân bình thường
của các công dân trong một nước tự quản hoàn toàn; Mọi công việc hoặc dịch vụ
mà một người buộc phải làm do một quyết định của toà án, với điều kiện là công
việc hoặc dịch vụ đó phải tiến hành dưới sự giám sát và kiểm tra của những cơ
quan công quyền và người đó không bị chuyển nhượng hoặc bị đặt dưới quyền sử dụng
của những tư nhân, công ty hoặc hiệp hội tư nhân; Mọi công việc hoặc dịch vụ buộc
phải làm trong những trường hợp khẩn cấp…; Những công việc của thôn, xã vì lợi
ích trực tiếp của tập thể và do những thành viên của tập thể đó thực hiện…
Bên cạnh đó, một nền tảng khác của ILO
là Công ước 105, được Hội nghị toàn thể của ILO thông qua ngày 25-6-1957; đã có
173 nước phê chuẩn. Quốc hội khoá XIV của Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về
việc phê chuẩn gia nhập Công ước 105 tại Kỳ họp thứ 9 ngày 8-6-2020. Công ước
105 chứa đựng những quy định thể hiện cam kết mạnh mẽ về việc xoá bỏ ngay lao động
cưỡng bức hoặc bắt buộc: Mọi nước thành viên của ILO phê chuẩn Công ước này cam
kết bãi bỏ lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc và cam kết không sử dụng bất kỳ
hình thức nào của loại lao động đó. Mọi thành viên của ILO phê chuẩn Công ước
này cam kết bãi bỏ lao động cưỡng bức và cam kết không sử dụng bất kỳ hình thức
nào của lao động cưỡng bức. Điều này thể hiện hành động mạnh mẽ và dứt khoát
hơn của cộng đồng quốc tế đối với việc xoá bỏ lao động cưỡng bức.
Quyền
và nghĩa vụ của phạm nhân
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật”; “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công
dân”; “Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội”
(Điều 14, 15); Đồng thời quy định: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề
nghiệp, việc làm”; “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo
việc làm cho người lao động” (Điều 35, Điều 57).
Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi,
bổ sung năm 2017) quy định: “Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp
hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người
có ích cho xã hội” (Điều 3).
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 có đề
cập các quyền và nghĩa vụ của phạm nhân, trong đó có quyền được lao động, học tập,
học nghề và nghĩa vụ: Chấp hành bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp
luật, quyết định của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án
hình sự trong quá trình thi hành án hình sự và các quyết định khác của các cơ
quan khác có thẩm quyền; Chấp hành nội quy cơ sở giam giữ phạm nhân, các tiêu
chuẩn thi đua chấp hành án; Chấp hành yêu cầu, mệnh lệnh, hướng dẫn của cán bộ
cơ sở giam giữ phạm nhân; Lao động, học tập, học nghề theo quy định. Điều 30,
32 Luật này cũng có các quy định cụ thể về lao động của phạm nhân. Cụ thể: “Phạm
nhân được chia thành các đội, tổ để lao động, học tập và sinh hoạt”; “Phạm nhân
được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khoẻ và đáp ứng yêu cầu quản lý,
giáo dục, hoà nhập cộng đồng. Phạm nhân lao động phải dưới sự giám sát, quản lý
của trại giam, trại tạm giam. Thời gian lao động của phạm nhân không quá 8 giờ
trong 1 ngày và 5 ngày trong 1 tuần, được nghỉ vào các ngày chủ nhật, lễ, tết
theo quy định của pháp luật…; “Phạm nhân nữ được bố trí làm công việc phù hợp với
giới tính; không được bố trí làm công việc không sử dụng lao động nữ theo quy định
của pháp luật về lao động”; “Phạm nhân bị bệnh hoặc có nhược điểm về thể chất,
tâm thần thì tuỳ mức độ, tính chất của bệnh và trên cơ sở chỉ định của y tế trại
giam, trại tạm giam được miễn hoặc giảm thời gian lao động”; “Phạm nhân được
nghỉ lao động trong các trường hợp sau đây: a) Phạm nhân bị bệnh, không đủ sức
khoẻ lao động và được y tế trại giam xác nhận; b) Phạm nhân đang điều trị tại
cơ sở y tế; c) Phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi đang ở cùng mẹ trong trại
giam mà bị bệnh, được y tế trại giam xác nhận; d) Phạm nhân nữ có thai được nghỉ
lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của pháp luật về lao động”.
Với quy định trên thì bất cứ phạm nhân
nào, là công dân Việt nam hay người nước ngoài, thân phận và địa vị pháp lý của
họ ra sao đều buộc phải chấp hành án trong các cơ sở giam giữ phải lao động, học
tập, học nghề để trở thành người có ích cho xã hội... Nói cách khác, lao động vừa
là quyền, đồng thời là nghĩa vụ của phạm nhân trong quá trình chấp hành bản án
của toà án tại các cơ sở giam giữ.
Không
có lao động cưỡng bức
Việc lao động của phạm nhân trong trại
giam ở Việt Nam được thực hiện bởi Luật Thi hành án hình sự, xuất phát từ phán
quyết của toà án (phạm nhân là người bị toà án tuyên là có tội, phải chịu hình
phạt và phải thi hành quyết định thi hành án của toà án), đặt dưới sự giám sát,
quản lý của trại giam, đồng thời họ không bị chuyển nhượng hoặc bị đặt dưới quyền
sử dụng của tư nhân, công ty hoặc hiệp hội tư nhân... Do vậy, có thể khẳng định
lao động của phạm nhân là một trong năm trường hợp “ngoại lệ”, không bị coi là
lao động cưỡng bức theo hai Công ước 29 và 105 của ILO.
Lao động của phạm nhân trong trại giam ở
Việt Nam cũng đồng thời là một trong các trường hợp “ngoại lệ” được quy định tại
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) được Đại hội đồng
Liên hiệp quốc thông qua ngày 16-12-1966, có hiệu lực từ ngày 23-3-1976. Điều 8
Phần III Công ước nêu: Thuật ngữ “lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức” không bao gồm
bất kỳ công việc hoặc sự phục vụ nào mà thông thường đòi hỏi một người bị giam
giữ theo quyết định hợp pháp của toà án hoặc một người khi được trả tự do có điều
kiện phải làm... (ở những nước còn áp dụng hình phạt tù kèm lao động).
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam coi việc lao động của các phạm nhân trong trại giam không phải là
hoạt động nhằm mục đích kinh doanh mà là hoạt động lao động, hướng nghiệp, dạy
nghề. Với phương châm trấn áp kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với
giáo dục cải tạo, lao động, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân góp phần cải tạo
những tư tưởng ăn bám, lười lao động, không biết tôn trọng các sản phẩm lao động,
thành những người biết trân trọng giá trị lao động chân chính, có tổ chức, có kỷ
luật, có kỹ thuật trong lao động. Đồng thời, tổ chức lao động, hướng nghiệp, dạy
nghề trong trại giam còn giúp cho phạm nhân rèn luyện được sức khoẻ, có được định
hướng nghề nghiệp, kỹ năng và thói quen lao động, giúp họ sau khi ra trại có thể
tìm kiếm việc làm, sớm tái hoà nhập cộng động, ổn định cuộc sống bản thân và
gia đình, không tái vi phạm pháp luật.
Điều 34 Luật Thi hành án hình sự năm
2019 cũng có quy định về việc sử dụng kết quả lao động của phạm nhân sau khi trừ
đi các chi phí hợp lý, được sử dụng để: Bổ sung mức ăn cho phạm nhân; lập Quỹ
hoà nhập cộng đồng để chi hỗ trợ cho phạm nhân khi chấp hành xong án phạt tù; bổ
sung vào quỹ phúc lợi, khen thưởng của trại giam; chi hỗ trợ đầu tư trở lại cho
trại giam phục vụ việc tổ chức lao động, giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân, nâng
cao tay nghề cho phạm nhân chuẩn bị chấp hành xong án phạt tù; chi trả một phần
công lao động cho phạm nhân trực tiếp tham gia lao động sản xuất, chi hỗ trợ
cho phạm nhân bị tai nạn lao động,...
Thống kê tại Cục Cảnh sát quản lý trại
giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng - Bộ Công an, trong thời gian
10 năm qua (từ năm 2010 đến năm 2019), các trại giam đã tự tổ chức và phối hợp
với nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị để tổ chức lao động, dạy và truyền nghề cho
phạm nhân (đã tổ chức thành công 6.757 lớp dạy, truyền nghề cho 368.183 phạm
nhân; cấp chứng chỉ nghề cho 31.044 phạm nhân). Cũng trong vòng 10 năm qua, các
trại giam đã trích từ kết quả lao động, học nghề của phạm nhân: 436.380.000.000
đồng để chi thưởng và chi bổ sung mức ăn cho phạm nhân; 109.914.000.000 đồng hỗ
trợ phạm nhân tái hoà nhập cộng đồng; 138.141.000.000 đồng chi tổ chức đào tạo,
dạy nghề, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho phạm nhân,...
Việc tổ chức lao động cho phạm nhân xuất
phát từ chính sách nhân văn của Đảng, Nhà nước ta vì chính lợi ích của của phạm
nhân, hướng đến mục đích giúp họ cải tạo, hướng thiện. Đồng thời, lao động cũng
là cách thức để tạo động lực cho phạm nhân rèn luyện sức khỏe, có nghề nghiệp để
có tâm thế chủ động tái hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
Từ cả góc độ pháp lý và thực tiễn, cần khẳng định rõ ở Việt Nam không có lao động
cưỡng bức trong trại giam.

- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 越南增长前景乐观
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 为越南继续促进性别平等奠定坚实基础
- Nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
- 必须停止对越南宗教的颠倒黑白、混淆是非的论调
- Cần chấm dứt những luận điệu 'đổi trắng thay đen'
- 美国国务院年度人权报告的荒谬之处
- Điều phi lý trong báo cáo nhân quyền hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ
- 越南继续主动、积极为促进世界人权事业贡献力量
- Việt Nam tiếp tục chủ động đóng góp thúc đẩy nhân quyền trên thế giới
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét