35 năm đổi mới: Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm
QĐND – Tại Đại hội VI của Đảng (tháng
12-1986), Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đến nay,
công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua chặng đường 35 năm.
Vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử; tạo ra nguồn lực quan trọng đưa đất nước phát triển giàu mạnh,
phồn vinh. Thành tựu to lớn đó còn là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, vì mục tiêu
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Dấu ấn lịch sử sâu đậm nhất trong sự
lãnh đạo kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam là khởi xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mới, trước hết là “đổi mới về tư duy kinh tế”, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế. Đảng xác định phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) là nhiệm vụ trung tâm để
dân giàu, nước mạnh.
Trước đổi mới (năm 1986), nền kinh tế Việt
Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng do cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, lại bị
các nước bao vây cấm vận. Đã vậy, nguồn viện trợ từ Liên Xô và các nước XHCN
cũng bị cắt giảm. Đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn. Trước tình đó, Đảng
ta đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật” và nhận ra, đã đến lúc phải đổi mới tư
duy về kinh tế.
Dấu mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới
chính sách kinh tế được bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với đường
lối đổi mới toàn diện đất nước, mà trước hết là “đổi mới về tư duy kinh tế”, mở
ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế nước
ta. Lần đầu tiên Văn kiện Đại hội VI của Đảng chính thức ghi nhận sự tồn tại
bình đẳng của các thành phần kinh tế: "Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng
rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có tính
nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi người yên tâm, mạnh dạn kinh
doanh... phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải và những
việc có ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm chỉnh luật
pháp và chính sách đều được tôn trọng, được hưởng thu nhập tương xứng với kết
quả lao động, kinh doanh hợp pháp của họ".
Rất nhiều hội nghị Trung ương sau đó đã
được cụ thể hóa chủ trương đổi mới tư duy kinh tế như: Nghị quyết Trung ương 2,
khóa VI về lưu thông phân phối; Nghị quyết Trung ương 3 khóa VI về đổi mới cơ
chế quản lý nhà nước đối với xí nghiệp quốc doanh; đặc biệt là Nghị quyết số 10
của Bộ Chính trị khóa VI (năm 1988) về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp mà
nhân dân thường gọi là "Khoán 10"...
Từ sau Đại hội VII của Đảng (tháng
6-1991), cùng với sự thừa nhận kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn
minh nhân loại, nhận thức và chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN của Việt Nam cũng ngày càng hoàn thiện và cụ thể hóa.
Với chủ đề "Tăng cường xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN; đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”, Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) đã tập trung
xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược
(hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng
bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
chú trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Những dấu mốc đổi mới chính sách kinh tế
của Việt Nam trong 35 năm qua cho thấy, Đảng ta luôn có nhận thức nhất quán đổi
mới tư duy kinh tế luôn đi trước một bước và được kết hợp chặt chẽ với đổi mới
tư duy chính trị, nhằm mục tiêu vì một Việt Nam tăng trưởng kinh tế nhanh, bền
vững, gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Năm 2020 vừa qua là một năm đầy bão tố với
nền kinh tế thế giới và Việt Nam. Đại dịch Covid-19 đã kéo nhiều quốc gia tăng
trưởng âm. Tại Việt Nam, ngoài đương đầu với đại dịch Covid-19, chúng ta còn phải
hứng chịu nhiều thiên tai, gây hậu quả nặng nề về người và tài sản. Trong bối cảnh
đó, Việt Nam đã “vượt bão” thành công với tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng
2,91% so với năm trước, thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Quy
mô nền kinh tế Việt Nam năm 2020 tăng 1,4 lần so với đầu nhiệm kỳ (năm 2016),
trở thành nền kinh tế có quy mô đứng thứ 4 trong ASEAN. Chất lượng tăng trưởng
được cải thiện; năng suất lao động tăng bình quân 5,8%/năm, cao hơn nhiều so với
giai đoạn 2011-2015. Trong bối cảnh nguồn thu bị suy giảm, nhu cầu chi tăng mạnh,
kinh tế vĩ mô vẫn giữ được ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế, nhất là
cân đối thu, chi ngân sách nhà nước cơ bản được bảo đảm; chỉ số giá tiêu dùng
được kiểm soát ở mức dưới 4%/năm; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt mức kỷ lục,
trên 540 tỷ USD; cán cân thương mại có thặng dư cao, xuất siêu khoảng 20 tỷ
USD, dự trữ ngoại hối tăng cao...
Trước đó, kinh tế Việt Nam cũng nhiều lần
vững vàng “vượt bão” trong khủng hoảng tài chính thế giới vào các năm 1997,
2007-2008.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu,
quy mô nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng
250USD trong những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng đói
nghèo, chuyển sang thực hiện và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tốc độ tăng trưởng
GDP tăng nhanh. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995, đạt 8,2%/năm;
giai đoạn 1996-2000 đạt 7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005 đạt 7,34%; giai đoạn
2006-2010 đạt 7%/năm; giai đoạn 2011-2015 đạt 5,9%/năm. Mặc dù năm cuối nhiệm kỳ
bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân giai đoạn 2016-2020 của Việt Nam vẫn đạt khoảng 5,9%/năm. Quy mô nền kinh
tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP ước đạt 268,4 tỷ USD
và thu nhập bình quân đầu người ước đạt 2.750USD/người/năm). Chất lượng tăng
trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011-2015
lên 5,8%/năm giai đoạn 2016-2020.
Những thành công đó không phải là ngẫu
nhiên, mà là kết quả tổng hợp và thước đo hiệu quả khả năng tự chủ, tự cường,
phản ứng chính sách và phản ứng thị trường đồng bộ, cùng một quá trình phấn đấu
lâu dài, không ngừng nghỉ của Đảng, Chính phủ và Nhà nước, cũng như toàn thể cộng
đồng doanh nghiệp và nhân dân Việt Nam. Từ chỗ tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng,
chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và lực lượng lao động có tiền công thấp, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chủ trương chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế bao
trùm và bền vững, tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, hoàn thiện mô hình tăng trưởng đồng bộ
trên cả phương diện kinh tế-kỹ thuật, KT-XH và kinh tế-sinh thái, thúc đẩy phát
triển trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến
bộ khoa học-công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so
sánh và chủ động hội nhập quốc tế.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, đặc biệt trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của
Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm mà dự
thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội lần thứ XIII
của Đảng đã nêu như việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, CNH, HĐH còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô
hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế chưa cao. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh
bạch. Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn
chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ
phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu
quả còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm lại; chất lượng nhiều dịch
vụ thấp. Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ công
còn lúng túng. Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại
chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất
là thị trường các yếu tố sản xuất. Hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH phát triển
thiếu đồng bộ. Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả chưa cao. Vốn vay nước ngoài
giải ngân chậm, sử dụng còn dàn trải, lãng phí. Thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn thiếu chọn lọc; sự kết nối và chuyển giao công nghệ giữa các doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Xuất khẩu tăng nhanh
nhưng giá trị gia tăng còn thấp...
Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình
trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo kinh tế.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần
thứ XIII của Đảng đã xác định rõ định hướng phát triển đất nước giai đoạn
2021-2030, trong đó phải hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân
bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh;
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, CNH, HĐH đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô
thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển
đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế...
Để quyết định đường lối, chính sách và
những chủ trương lớn về kinh tế một cách đúng đắn, Đảng cần tiếp tục phát huy
dân chủ trong toàn xã hội, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân,
phát huy trí tuệ của toàn dân trong việc xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng,
tránh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, độc đoán, lợi ích nhóm ngay trong từng quyết
sách. Khi có đường lối, chủ trương đúng, vấn đề có tính quyết định là tổ chức
thực hiện, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Lãnh đạo kinh tế thông qua bộ máy nhà nước
là phương thức lãnh đạo chủ yếu, hiệu quả nhất trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Các cơ quan nhà nước phải thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách, chiến
lược phát triển KT-XH của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp luật và kế hoạch
công tác. Tuy Đảng không trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, không quyết định các vấn đề kinh tế thuộc thẩm quyền của bộ máy nhà nước
nhưng Đảng phải lãnh đạo các hoạt động đó theo đúng quan điểm, tư tưởng của Đảng.
Để làm được điều này, Đảng lãnh đạo xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước, xây dựng
bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà
nước, bảo đảm sự vận hành thông suốt của bộ máy. Đảng giới thiệu những đảng
viên ưu tú có năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của
hệ thống chính trị, tăng cường trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Điều
đó cũng có nghĩa là Đảng phải có biện pháp xử lý, đề xuất bãi nhiệm những đảng
viên là cán bộ giữ trọng trách của cơ quan nhà nước nếu không thực hiện đúng đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng, lãng phí.
Công tác tuyên truyền của Đảng có tầm
quan trọng to lớn trong lãnh đạo xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc gia. Một
mặt, Đảng lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội trực tiếp hoặc
gián tiếp qua các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội, làm cho đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước thực sự xuất phát từ nhân dân, phục vụ lợi ích chính
đáng của nhân dân. Mặt khác, thông qua công tác tuyên truyền, Đảng vận động,
thuyết phục để nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc thực hiện chủ trương của Đảng
và tích cực hưởng ứng thực hiện thắng lợi chủ trương đó.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét