Khát vọng Việt Nam - Khát vọng phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước
Một trong những điểm mới, nổi bật
và bao trùm trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là nhấn mạnh
tới khát vọng Việt Nam, khát vọng phát triển bền vững và hiện đại
hóa đất nước. Đó chính là khát vọng, hoài bão, tâm nguyện của Chủ
tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của toàn dân tộc. Cuộc
đời và sự nghiệp của Người đã hiến dâng trọn vẹn cho dân tộc Việt Nam.
Người là hình ảnh của dân tộc, là linh hồn của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, là hiện thân sinh động và cảm động nhất của khát vọng
Việt Nam.
Sinh thời, Người đã nói: cả đời
tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà
được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, nhà ở, được học hành, được sống hạnh phúc. Trong “Tuyên ngôn
độc lập”, Người khẳng định những quyền cơ bản, thiêng liêng của con
người và của cả dân tộc Việt Nam, đó là quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Là Chủ tịch Chính phủ và Chủ tịch
Nước, Người đã cùng với toàn Đảng và toàn dân gây dựng chính thể
cộng hòa dân chủ đầu tiên ở nước ta, xây đắp nền móng cho chế độ
mới, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hy sinh từ những ngày đầu
dựng nước Việt Nam mới. Trong những phiên họp đầu tiên của Chính phủ,
Người đề nghị tập trung giải quyết ngay sáu vấn đề cấp bách liên
quan trực tiếp tới cuộc sống của dân: chống giặc đói, diệt giặc
dốt, soạn thảo Hiến pháp đầu tiên và tổ chức Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội để khẳng định địa vị pháp lý của nhà nước dân chủ cộng
hòa, sửa đổi tâm lý, tính cách và giáo dục lại tinh thần nhân dân
sau ngót một thế kỷ nô lệ; tuyên bố tự do tôn giáo, tín ngưỡng và
đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh xây dựng chế độ và bảo vệ
đất nước.
Trong công việc kiến thiết quốc gia,
Người chỉ đạo thực hiện những việc cần làm ngay: làm cho dân có ăn,
làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, được học hành. Làm những
việc đó để vì dân, để dân được hưởng quyền tự do, dân chủ và xứng
đáng là người chủ của chế độ mới. Người kỳ vọng “dân tộc Việt Nam
nhất định phải trở thành một dân tộc thông thái”. Ngay vào lúc vận
nước gian nan, chiến tranh xâm lược của đế quốc thực dân đang đến gần
mà Người vẫn nhạy cảm và mẫn tiệp suy nghĩ về vai trò của văn hóa.
Trong Đại hội Văn hóa cứu quốc lần thứ nhất (năm 1946), Người nói: “Văn
hóa soi đường cho quốc dân đi”. Khát vọng Hồ Chí Minh biểu hiện thành
một thông điệp phát triển, khai phóng dân tộc, khai trí quốc dân hướng
tới tương lai.
Khát vọng Hồ Chí Minh cũng được
Người cô đúc trong một mệnh đề nổi tiếng có ý nghĩa như Tuyên ngôn,
có giá trị như Cương lĩnh chỉ đường khi Đảng ta ra hoạt động công
khai, sau Đại hội II (năm 1951), “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
độc lập, thống nhất, dân chủ và phú cường”. Di chúc để lại trước
lúc đi xa, Người nêu rõ “điều mong muốn cuối cùng” như một tâm nguyện,
như một khát vọng theo đuổi suốt đời, là: “toàn Đảng toàn dân đoàn
kết một lòng, xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới”.
Người chỉ thay cụm từ “phú cường”
bằng cụng từ “giàu mạnh” cho dân dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc để dễ
làm và làm được mà thôi. Người còn là người truyền cảm hứng vĩ đại
tới toàn dân tộc trên mỗi bước đi, mỗi việc làm, nhất là kỳ vọng
rất nhiều ở thế hệ trẻ nước ta. Trong thư gửi các cháu học sinh nhân
ngày khai giảng năm học đầu tiên dưới chế độ mới, tháng 9 năm 1945
còn mãi lấp lánh tư tưởng giáo dục của Người - “Khoa học - Dân chủ -
Nhân văn và Hiện đại” một nền giáo dục mới trong nhà trường mới sẽ
đem lại cho các em “sự phát triển tự do hoàn toàn những năng lực sẵn
có của các em”. “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”1. Có thể tìm
thấy trong khát vọng phát triển của Người bắt đầu từ giáo dục,
biểu đạt tinh tế tư tưởng coi giáo dục là quốc sách hàng đầu - đó
là con đường chấn hưng dân tộc Việt Nam.
Khát vọng Hồ Chí Minh - khát vọng
Việt Nam còn là khát vọng đổi mới thông qua hội nhập, phát huy nội
lực từ đất nước - con người - dân tộc Việt Nam; đồng thời, thâu góp tinh
hoa văn hóa nhân loại, thu hút ngoại lực từ quốc tế và thế giới để
Việt Nam phát triển vượt trội, phát triển nhanh và bền vững. Khát
vọng Hồ Chí Minh trong tư tưởng và di sản vĩ đại của Người đang được
Đảng ta và nhân dân ta nỗ lực nhận thức và vận dụng để thúc đẩy
đổi mới sáng tạo, khơi dậy mọi tiềm năng, nêu cao quyết tâm và tín
tâm, ra sức thực hành “Đoàn kết - Đoàn kết - Đại đoàn kết/ Thành
công - Thành công - Đại thành công” để thực hiện tốt nhất khát vọng
Việt Nam - Khát vọng phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước.
Tư tưởng về khát vọng Việt Nam
được Đảng ta nêu rõ ngay trong việc xác định chủ đề Đại hội, được
thể hiện tập trung và nổi bật trong Báo cáo Chính trị, trong đánh
giá thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 -
2020) và xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021
- 2030) cũng như trong Báo cáo về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và kiểm
điểm việc thi hành Điều lệ Đảng. Việc Đảng ta nhấn mạnh tư tưởng
khát vọng Việt Nam tại Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa sâu sắc về
nhiều mặt.
Thứ nhất, chúng ta đã tiến hành công cuộc
đổi mới được 35 năm. Trong khoảng thời gian ấy, thế giới và trong
nước đã có những biến đổi to lớn, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ đến
nước ta. Chúng ta giải quyết thành công cuộc khủng hoảng đó sau một
thập kỷ đổi mới, tạo thế vững chắc cho ổn định chính trị - xã hội
và tạo tiền đề để bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tư duy mới, mô hình mới và
cách làm mới. Điều đặc biệt quan trọng là trong xử lý khủng hoảng,
Việt Nam đã không để xảy ra khủng hoảng chính trị mà nhiều nước đã
mắc phải, dẫn tới đổ vỡ thể chế, đổ vỡ chế độ; phấn đấu đến giữa thế
kỷ XXI, Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Thứ hai, dù đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhưng chúng ta đang phải nỗ
lực vượt qua những điểm nghẽn trong phát triển. Đó là: về thể chế,
nhất là thể chế phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; về hạ tầng kỹ thuật - công nghệ cũng như hạ tầng
kinh tế - xã hội; về chất lượng nguồn nhân lực, để giải bài toán
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như đổi mới và nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu
cầu phát triển nhanh và bền vững. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải ra
sức tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức trong tiến trình đổi
mới và hội nhập quốc tế. Bởi vậy, phát huy ý chí, khát vọng, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để
đổi mới sáng tạo đang đặt ra với tất cả sự cần thiết của nó đối
với Đảng và nhân dân ta. Chúng ta cần nhận thức khát vọng Việt Nam -
Khát vọng phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước trên những
điểm chủ yếu sau:
Một là, khát vọng Việt Nam nhấn
mạnh trong chủ đề Đại hội có giá trị như một thông điệp phát triển
mà Đảng tuyên bố trước toàn dân và bạn bè, đối tác quốc tế. Khát
vọng Việt Nam là ý chí, sức mạnh Việt Nam, là sự đoàn kết chặt
chẽ toàn Đảng, toàn dân để “tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh”2. Đây là vấn đề hệ trọng, là trách nhiệm
chính trị - đạo đức và pháp lý của Đảng cầm quyền đối với sự
phát triển của dân tộc và cuộc sống của nhân dân. Khát vọng Việt Nam
còn là sự cô đúc những tư tưởng cối lõi, là động lực tinh thần mãnh
liệt, là cả sức mạnh nội sinh của văn hóa, con người Việt Nam thúc
đẩy thực hiện thắng lợi các mục tiêu đổi mới và phát triển, nhằm
phát triển nhanh và bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Hai là, khát vọng Việt Nam được
Đảng ta xác định trong cả tầm nhìn dự báo và định hướng phát
triển. Khát vọng phát triển muốn thực hiện và trở thành hiện thực
phải phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn
lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất. Nó quy định
một trong ba đột phá chiến lược của phát triển là “phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực cho các lĩnh vực then chốt”3. Bởi thế, phải tiếp tục thực hiện
phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách
hàng đầu.
Ba là, khát vọng Việt Nam với nghĩa
là khát vọng phát triển còn thể hiện trong các nhiệm vụ trọng tâm
mà toàn Đảng, toàn dân ta dốc lòng thực hiện. Đảng nhấn mạnh “Khơi
dậy khát vọng phát triển Việt Nam cường thịnh, phát huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập
quốc tế; thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản
lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân”4.
Bốn là, khát vọng Việt Nam là khát
vọng phát triển gắn liền với đổi mới và hội nhập quốc tế. Đây là
một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh mà Người trù tính từ
rất sớm. Ngày nay, Đảng ta ra sức thực hiện theo di huấn của Người, với
tinh thần: “phải chủ động, nhạy bén, nắm chắc thời cơ, quyết vượt qua
khó khăn, thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, hoàn thiện thể
chế, khơi dậy mọi khát vọng, tiềm năng, nguồn lực cho phát triển”5.
Đó cũng chính là khát vọng vươn lên mãnh liệt và quyết tâm chính
trị cao đưa đất nước lập nên những kỳ tích phát triển mới vì một
nước Việt Nam cường thịnh, cùng tiến bước, sánh vai với các cường
quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc.
Khát vọng Việt Nam đã và đang là
nguồn cảm hứng, thúc giục ý chí và hoài bão lớn đối với toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu
phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước từ nay đến giữa thế
kỷ XXI.
GS, TS. HOÀNG CHÍ BẢO

- Tự do báo chí phải trong khuôn khổ của pháp luật
- 为越南继续促进性别平等奠定坚实基础
- Nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
- 必须停止对越南宗教的颠倒黑白、混淆是非的论调
- Cần chấm dứt những luận điệu 'đổi trắng thay đen'
- 美国国务院年度人权报告的荒谬之处
- Điều phi lý trong báo cáo nhân quyền hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ
- 驳斥对社会主义定向市场经济的错误、敌对观点
- Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về nền kinh tế thị trường XHCN trong tình hình mới
- 越南继续主动、积极为促进世界人权事业贡献力量
- Việt Nam tiếp tục chủ động đóng góp thúc đẩy nhân quyền trên thế giới
- 中央会议就国家重大问题作出结论
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét