35 năm công cuộc đổi mới: Đối ngoại tiên phong trong củng cố môi trường hòa bình, vì sự phát triển đất nước
QĐND - Từ quyết định lịch sử 35 năm trước
của Đại hội VI tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện, công tác đối ngoại
cũng nhanh chóng đổi mới, linh hoạt nhập cuộc, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối ngoại đã tiên phong, tạo nền tảng vững
chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì
hòa bình, phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Phá
thế bao vây cấm vận
Tới nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc (LHQ); thiết lập
khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện. So
sánh những con số này với thực trạng quan hệ của Việt Nam với các quốc gia và tổ
chức quốc tế 35 năm trước thì đó là một bước tiến rất lớn. Ẩn bên trong những
con số này là vị thế, uy tín ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại chặng đường đổi mới 35 năm qua
mới thấy rõ những nỗ lực tiên phong của đối ngoại Việt Nam trong mở rộng quan hệ,
gìn giữ và kiến tạo hòa bình để phát triển đất nước. Mô hình kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp sau chiến tranh không còn phù hợp khiến Việt Nam rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng. Năm 1986, lạm phát lên tới
774,7%, đời sống người dân hết sức khó khăn. Chủ quan là vậy, Việt Nam còn bị
bao vây cấm vận nặng nề nên thách thức thêm chồng chất. Trước tình hình đó, Nghị
quyết Đại hội VI (tháng 12-1986) xác định: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, vì sự nghiệp dân tộc và nghĩa vụ quốc tế... Mở rộng quan hệ với tất cả
các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”. Đây là một quyết định mang
tính đột phá của Đảng về đối ngoại khi Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết
của Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở
rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị-xã
hội, thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, tồn tại hòa bình để phát triển, phù
hợp với lợi ích của Việt Nam và xu thế của thế giới.
Nghị quyết Đại hội VI tuy nêu ngắn gọn về
phần đối ngoại nhưng cũng xác định rất rõ quan hệ của Việt Nam với các nước
láng giềng, trong đó có Trung Quốc: “Trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm độc lập,
chủ quyền và tôn trọng lẫn nhau, sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề
thuộc quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ và khôi phục
tình hữu nghị giữa hai nước, vì lợi ích chung của nhân dân hai nước, vì hòa
bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”. Thực hiện định hướng trên, Việt Nam đã tìm
được giải pháp về vấn đề Campuchia mà các bên có thể chấp nhận được. Bên cạnh
đó, sau nhiều vòng đàm phán, năm 1991, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc chính thức
được bình thường hóa, trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Quan hệ giữa
hai Đảng cũng được phục hồi trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, tự chủ, hoàn
toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau. Đây là những bước khởi đầu tích cực, giúp kiến tạo hòa bình và tạo cơ sở
để Việt Nam phá thế bao vây cấm vận bởi ở thời điểm năm 1986 và tới khi Việt
Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng tiêu cực
do nhiều lệnh cấm vận của Mỹ và các nước ASEAN. Vì vậy, nếu có quan hệ với các
nước ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ, thế bao vây cấm vận sẽ bị phá.
Những chuyến thăm của các nhà lãnh đạo
các nước ASEAN tới Việt Nam và các chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng Võ Văn Kiệt (năm 1991, 1992) và của Tổng Bí thư Đỗ Mười (năm 1993) tới
Thái Lan và Singapore đã giúp các bên hiểu nhau hơn. Tháng 7-1995, Việt Nam gia
nhập ASEAN, đưa khu vực Đông Nam Á từ đối đầu sang đối thoại, từ nghi kỵ sang
tin cậy, từ chia rẽ sang đoàn kết. Trong khi đó, với Mỹ, Đại hội VI của Đảng khẳng
định: "Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo
do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hòa
bình, ổn định ở Đông Nam Á". Hiện thực hóa chủ trương này, một số nghị quyết
của Bộ Chính trị xác định cần có chính sách toàn diện đối với Mỹ nhằm tranh thủ
dư luận nhân dân Mỹ và thế giới, tạo thuận lợi cho chiến lược của ta tập trung
vào việc giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế. Thiện chí của Việt Nam trong
giải quyết vấn đề mà phía Mỹ gọi là tù binh và người Mỹ mất tích (POW/MIA) và một
số vấn đề nhân đạo khác đã dẫn tới việc Mỹ nới lỏng một số hạn chế trong chính
sách cấm vận đối với Việt Nam. Sau một quá trình dài đàm phán cùng nỗ lực và
thiện chí của hai bên, tháng 2-1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ
lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam. Tháng 7-1995, Mỹ và Việt Nam thông
báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Thế bao vây cấm
vận đã được phá, mở ra một giai đoạn phát triển mới cho đất nước.
Mở
rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế
Đổi mới nhưng không đổi màu, hội nhập
nhưng không hòa tan, Việt Nam vững tin tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước và
các tổ chức quốc tế, tạo đà thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Sau khi gia nhập
ASEAN, Việt Nam tiếp tục gia nhập các tổ chức khu vực, liên khu vực và quốc tế
quan trọng như: Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) năm 2007. Việc tham gia vào các tổ chức này xuất phát từ sự chủ động
trong định hướng lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết số 13/NQ-TW ngày 20-5-1988 của Bộ
Chính trị (khóa VI) nhấn mạnh: “Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa
đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều
khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa hơn”. Tư duy
đối ngoại từ đó cũng được đổi mới mạnh mẽ và rõ ràng hơn. Tới Ðại hội VII (năm
1991), chủ trương đối ngoại nêu rõ Việt Nam muốn là bạn, là đối tác với các nước
trên thế giới và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Tiếp tục thực
hiện nhất quán chủ trương này, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) với
quan điểm mới về đối tác-đối tượng, hợp tác và đấu tranh đã giúp Việt Nam gia
tăng điểm đồng, hóa giải điểm khác biệt, thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các nước,
đặc biệt là việc thiết lập mạng lưới đối tác chiến lược, đối tác toàn diện.
Những chủ trương, định hướng xuyên suốt
của Đảng về công tác đối ngoại từ khi khởi xướng sự nghiệp đổi mới đã chứng tỏ
tính đúng đắn khi vai trò và vị trí của đất nước ngày càng tăng trên trường quốc
tế, đồng nghĩa với việc đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ sở hạ tầng
được nâng cấp. Từ một nước được thế giới biết đến qua các cuộc chiến tranh, Việt
Nam đã trở thành điểm đến của các doanh nghiệp quốc tế, mang lại nhiều cơ hội
phát triển kinh tế, củng cố nền quốc phòng, an ninh, bảo vệ lợi ích quốc
gia-dân tộc. Thành công nối tiếp thành công, báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX về các văn kiện Đại hội X của Đảng tháng 4-2006 tiếp tục khẳng
định: “Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương,
lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”. Trong giai đoạn mở rộng
quan hệ và hội nhập kinh tế từ năm 1996 đến 2010, cùng với việc duy trì được
hòa bình, tăng cường được niềm tin với cộng đồng quốc tế, nền kinh tế Việt Nam
nổi lên như một điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu, một hiện tượng kinh
tế của thế giới.
Hội
nhập toàn diện, phát huy vai trò nòng cốt
Đối ngoại không những luôn bám sát mục
tiêu phát triển của đất nước mà còn phát huy vai trò của đội ngũ tiên phong
trong củng cố môi trường hòa bình để tạo đà cho sự phát triển của đất nước. Từ
những thành công trong 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Ðại hội XI của Đảng
(năm 2011) đã nâng tầm từ hội nhập kinh tế sang "chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế" một cách toàn diện. Theo đó, cùng với việc chủ động thiết lập
quan hệ ngoại giao với các nước, Việt Nam đã xây dựng được mạng lưới 30 đối tác
chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có tất cả các nước lớn. Sự chủ động
và tích cực trong hội nhập quốc tế còn được thể hiện rõ khi Việt Nam chủ động
đàm phán nhiều hiệp định thương mại, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và
tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP). Với ASEAN, Việt Nam đã khẳng định vai trò và trách nhiệm của mình ngay
từ khi tham gia hiệp hội. Đặc biệt, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công Năm Chủ tịch
ASEAN 2020 giữa lúc đại dịch Covid-19 hoành hành, được cộng đồng quốc tế đánh
giá cao.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (tháng
1-2016) nhấn mạnh đối ngoại là một trong những nhiệm vụ trọng tâm: “Mở rộng và
đưa vào chiều sâu các mối quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách
thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng
cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”. Đại hội XII cũng đề ra
phương châm "chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế
đa phương". Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 8-8-2018 của Ban Bí thư đã cụ thể hóa
phương châm này, đồng thời nhấn mạnh nỗ lực vươn lên để đóng vai trò nòng cốt,
dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương quan trọng phù hợp với khả
năng và điều kiện cụ thể. Có nhiều ví dụ để chứng minh vai trò ngày càng nâng
cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong năm đầu tiên đảm nhiệm vai trò Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-2021, tiếng nói, quan
điểm của Việt Nam ở LHQ về các vấn đề quốc tế và khu vực luôn được đánh giá
cao. Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã cử 53 sĩ quan triển khai theo hình thức
cá nhân và 126 bác sĩ, nhân viên y tế của Bệnh viện dã chiến cấp 2 đi làm nhiệm
vụ Gìn giữ hòa bình LHQ, khẳng định Việt Nam chủ động thực hiện trách nhiệm của
mình với cộng đồng quốc tế.
Sự lãnh đạo nhất quán, xuyên suốt của Đảng
chính là kim chỉ nam, là nhân tố quyết định cho thành công của công tác đối ngoại,
góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới 35 năm qua. Trong quá trình
này, đối ngoại Việt Nam đã xứng đáng là đội ngũ tiên phong trong củng cố môi
trường hòa bình, tạo cơ hội cho đất nước phát triển mạnh mẽ. Đường lối, chủ
trương đối ngoại đúng đắn của Ðảng qua các thời kỳ, trên cơ sở đánh giá đúng thời
cuộc và tiếp thu, đúc rút các bài học của đối ngoại Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp
tục được chủ động phát huy trong thời gian tới và chặng đường tiếp theo, đưa đất
nước ta vào một thời kỳ phát triển mới, nâng vị thế và uy tín của Việt Nam lên
một tầm cao mới.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét