An ninh con người trong tình hình mới
Vấn đề con người, nhất là an ninh con
người luôn là chủ đề nóng của mọi quốc gia, thế giới, Việt Nam không là ngoại lệ.
Vì thế, trong Đại hội XIII của Đảng, vấn đề này được các đại biểu bàn luận sôi
nổi và thống nhất cao triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp bảo đảm.
Theo Liên hợp quốc, an ninh con người thể
hiện ở hai khía cạnh cơ bản: an toàn trước các mối đe dọa triền miên, như: đói
khát, bệnh tật, áp bức; được bảo vệ trước những biến động bất thường và có hại
đối với cuộc sống hàng ngày, trong mọi môi trường. Liên hợp quốc đưa ra bảy
nhân tố cấu thành, tác động đến an ninh con người, gồm: an ninh kinh tế, an
ninh lương thực, an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an ninh
cộng đồng và an ninh chính trị. Các nhân tố này, tác động đến an ninh con người
từ nhiều góc độ: phương diện, hoàn cảnh, không gian, thời gian, điều kiện, môi
trường, trực tiếp hoặc gián tiếp đến từng người, cộng đồng người nhất định. An
ninh con người là an ninh, an toàn của con người trong cuộc sống. Thực tiễn đã
minh chứng, các cuộc chiến tranh, xung đột và những mâu thuẫn nảy sinh trong đời
sống xã hội tác động sâu sắc đến an ninh con người. Tương lai, an ninh con người
còn chịu sự tác động của hàng loạt vấn đề từ an ninh phi truyền thống, như: khủng
bố, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh và sự cố do chính con người gây ra.
Hơn 91 năm lãnh đạo cách mạng, bảo đảm
an ninh con người luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Ngay trong Luận cương
chính trị đầu tiên (tháng 10/1930), Đảng ta đề cập hàng loạt vấn đề liên quan đến
con người, như: xã hội, chính trị, kinh tế, nhưng tập trung nhất là trong Bản
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (02/9/1945), Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trong định hướng phát triển
đất nước 2021 – 2030, Đảng ta khẳng định: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả,
bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội;
“Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh kinh tế,
an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”1.
Để triển khai thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính
trị cần quán triệt sâu sắc, thống nhất nhận thức và hành động theo quan điểm của
Đảng về vấn đề an ninh con người; trong đó, tập trung vào một số giải pháp chủ
yếu sau:
Một là, xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tinh, gọn, hiệu lực, hiệu
quả. Trước hết, cần xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực, v.v. Để
có bộ máy trong sạch, vững mạnh, chỗ dựa, tin cậy vững chắc của nhân dân cần
tích cực tinh giản bộ máy nhà nước bảo đảm tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ nhà
nước vững mạnh cả về phẩm chất, đạo đức, năng lực, trình độ, tư duy chiến lược,
thực sự là “công bộc của dân”. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, cửa
quyền, hách dịch làm suy giảm sức mạnh của bộ máy và lòng tin của nhân dân, xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, bảo đảm an ninh con người trong tình hình
mới.
Hai là, tập trung phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Để bảo đảm an ninh
con người bền vững cần phải xây dựng và phát triển một nền kinh tế ổn định, chất
lượng, năng suất, hiệu quả; kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đại hội XIII của Đảng định hướng phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để
huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất
kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị;
phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi
số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới
sáng tạo nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Đồng thời, thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược phát triển kinh
tế: (1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại; (2) Tiếp tục phát triển nguồn nhân lực, khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,
lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa con người Việt
Nam; (3) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ,
hiện đại, trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng
lượng, công nghệ thông tin, v.v. Trên cơ sở đó, giải quyết hài hòa giữa mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Đây là giải pháp quan trọng thể hiện tinh thần: bảo đảm an ninh con người
phải lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm; an ninh con người với lĩnh vực kinh
tế phải gắn chặt với việc làm và thu nhập của chính con người. Mặc dù, Đảng ta
luôn khẳng định phát triển kinh tế là trọng tâm, nhưng trong một số tình huống
cụ thể Đảng, Nhà nước ta cũng “sẵn sàng hy sinh một số lợi ích kinh tế để bảo vệ
tốt nhất an toàn sức khỏe cho nhân dân”, được thể hiện trong lãnh đạo, chỉ đạo
phòng, chống dịch bệnh, thảm họa môi trường, v.v.
Ba là, bảo đảm an ninh lương thực, chú
trọng xóa đói, giảm nghèo bền vững, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, tạo
việc làm cho người dân. Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước là không để bất
cứ người dân nào chịu đói, rét; màn trời, chiếu đất trong bão, lụt; không bỏ ai
ở lại phía sau trong cuộc sống hàng ngày, nhất là trong đại dịch. Phấn đấu sớm
hoàn thành các mục tiêu, chương trình vì sự phát triển bền vững, vì con người,
tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu
số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng
thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện chính
sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển. Quan tâm phát triển vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; tổ chức thực hiện hiệu quả chương
trình, mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm
nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm, nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện giảm nghèo bằng các chính sách hỗ trợ hiệu quả, khơi dậy ý chí chủ động
vươn lên tự thoát nghèo; hạn chế bất bình đẳng xã hội. Đồng thời, nâng cao phúc
lợi, an sinh xã hội, bảo đảm nhu cầu tối thiểu về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế,
việc làm,… tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu,
khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế.
Cải cách bảo hiểm xã hội đa tầng, dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền
vững. Đối với thị trường lao động, cần hướng đến việc làm bền vững; bảo đảm cơ
cấu, chất lượng nguồn nhân lực trong nước, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp
với cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng lao động, tập trung giải quyết việc làm
cho người dân, nhất là lao động nông nghiệp chuyển đổi ngành nghề.
Bốn là, bảo đảm quyền con người, coi con
người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu phát triển trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Nhà nước bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân. Giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng, nhân tố quyết định
bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách, nhằm điều tiết hài hòa
các mối quan hệ xã hội, trên cơ sở đó bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Chủ động xây dựng các “giá trị cốt lõi”, điều kiện tốt nhất nâng cao khả năng
sáng tạo và bảo đảm đồng thuận xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Phát
huy lợi thế và con người Việt nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng
nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng của người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ, năng lực
làm việc và cả thể lực; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bảo đảm nhân dân
được sống trong hòa bình, ổn định, an sinh xã hội tốt nhất, kinh tế phát triển
bền vững.
Để xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, trước hết phải chú trọng phát triển văn hóa. Bởi lẽ, con người vừa
là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, vừa là sản phẩm của văn hóa, vừa là người thụ
hưởng văn hóa. Con người là nhân tố quyết định không chỉ trong lĩnh vực văn
hóa, mà còn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng ta khẳng định, xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục tiêu của Chiến lược
phát triển. Con người, trước hết là nhân dân lao động phải được đặt vào trung
tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, mọi chương trình, dự án, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội đều phải xuất phát từ con người, vì con người,
không đánh đổi lợi ích kinh tế bằng mọi giá, bất chấp pháp luật và đạo lý xã hội.
Đồng thời, khai thác, phát huy các nguồn lực văn hóa của dân tộc làm động lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với đó, phát huy cao nhất sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống
chính trị; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tranh thủ tối đa sự
đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế
độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định chính trị, điều kiện tiên quyết bảo đảm an ninh quốc
gia, an ninh con người trong tình hình mới.
![](http://4.bp.blogspot.com/-JE_IPFlB95A/T2xOXxddz4I/AAAAAAAAA2I/sYgUF3LxUdw/s1600/tinkhac.jpg)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét