Ổn định vĩ mô, đẩy nhanh quá trình phục hồi kinh tế
Trường
đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vừa công bố ấn phẩm Báo cáo kinh tế Việt Nam thường
niên 2020: Ứng phó và vượt qua đại dịch Covid-19, hướng tới phục hồi và phát
triển. Trong đó, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề rất mới mà nền kinh tế
đang phải đối mặt sau hơn một năm đối phó với đại dịch Covid-19.
PGS,
TS Tô Trung Thành, Trưởng phòng nghiên cứu khoa học NEU chỉ rõ, cách thức chống
dịch của Việt Nam được đánh giá là có hiệu quả, Chính phủ đã thực hiện hàng loạt
giải pháp để hỗ trợ nền kinh tế. Dù tăng trưởng năm 2020 chỉ đạt 2,91%, thấp nhất
trong 20 năm qua, nhưng Việt Nam vẫn thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng cao nhất
toàn cầu trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm 4%.
So
các nước trong khu vực, kế hoạch và dự báo kinh tế Việt Nam năm 2021 khả quan
hơn. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với kinh tế Việt Nam là khả năng chống
chịu của nền kinh tế sẽ như thế nào nếu làn sóng lây nhiễm dịch bệnh trở lại với
sự xuất hiện của biến thể virus mới. Trong khi đó, sức chịu đựng của nền kinh tế
phụ thuộc rất lớn vào dư địa của các chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
Quy
mô chi tiêu ngân sách có thể gia tăng nếu đại dịch tái bùng phát và kéo dài,
trong khi thu ngân sách trở nên khó khăn hơn do nền kinh tế rơi vào vòng xoáy
suy giảm.
Thâm
hụt ngân sách và nợ công sẽ trở nên căng thẳng hơn, khiến cho dư địa tác động của
chính sách tài khóa sẽ bị thu hẹp lại trong khi rủi ro kinh tế vĩ mô có thể gia
tăng khi tiếp tục nới lỏng mạnh hơn chính sách tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế.
Quy
mô gói hỗ trợ tài khoá năm 2020 được đánh giá tương đương 3% GDP, thấp hơn nhiều
so mức 15% của các nước phát triển và mức khoảng hơn 10% của các nền kinh tế mới
nổi. Tại các nước Đông-Nam Á, quy mô gói hỗ trợ tương đương khoảng 2-7% GDP.
Nhưng
với quy mô nợ gia tăng và tình hình thâm hụt ngân sách hiện nay, dư địa tài
khóa của Việt Nam hiện đang thấp so các nước ASEAN khiến việc thiết kế chính
sách hỗ trợ tiếp theo ngày càng khó. Dư địa chính sách tiền tệ cũng đang hạn hẹp
khi khoảng chênh lệch giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát không còn nhiều.
Nhóm
nghiên cứu cũng chỉ ra một vấn đề khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Đó
là chất lượng tăng trưởng tuy có cải thiện nhưng vẫn chậm so với nhiều nước
trong khu vực. Cơ cấu kinh tế vẫn lạc hậu so mức trung bình của nhóm nước thu
nhập trung bình thấp.
Năng
suất lao động (NSLĐ) 10 năm qua chưa có sự cải thiện đáng kể so với khu vực. Chất
lượng đầu tư chưa cao, thể hiện ở hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) năm
2020 tăng lên rất cao, ở mức 14,28 so mức trung bình khoảng 6,5 trong giai đoạn
2011-2015…
PGS,
TS Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng NEU, nhấn mạnh: Mặc dù Chính phủ đã có những
chính sách kịp thời trong gói hỗ trợ lần 1 nhằm hỗ trợ và giải cứu một số khu vực
kinh tế, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất nhưng diễn biến phức tạp trở lại
của dịch Covid-19 trên một số địa phương trong cả nước sẽ tác động toàn diện và
nặng nề hơn đến nền kinh tế.
Thực
tế này đòi hỏi Chính phủ phải cân nhắc một gói hỗ trợ mới trong năm 2021 và những
năm tiếp theo với quy mô lớn hơn và độ bao phủ rộng hơn để chuẩn bị cho giai đoạn
phục hồi sau đại dịch.
Nhóm
nghiên cứu khuyến cáo: Ở cấp độ vĩ mô, Việt Nam còn rất ít dư địa tiền tệ và
tài khóa. Do vậy, chính sách tiền tệ nới lỏng cần hết sức thận trọng về quy mô
và thời gian kéo dài bởi có thể kích hoạt lạm phát bất cứ lúc nào, khi các hoạt
động kinh tế sôi động trở lại và hàng hoá thế giới đảo chiều, kinh tế thế giới
hồi phục.
Bên
cạnh đó, bong bóng giá tài sản cũng là mối đe dọa tiềm ẩn khác bởi hiện tượng
này không chỉ làm doãng thêm khoảng cách giàu nghèo mà còn hướng nguồn lực của
nền kinh tế rời xa hoạt động sản xuất vật chất, đem lại sự thịnh vượng cho xã hội
trong tương lai.
Đối
với chính sách hỗ trợ tài khóa, cần phải chi tiêu đúng trọng tâm, tiết kiệm, hỗ
trợ các đối tượng thực sự cần thiết. Ưu tiên cao nhất là hỗ trợ những người mất
việc làm, kể cả khu vực chính thức và phi chính thức. Thiết kế chính sách hỗ trợ
phải rõ ràng, minh bạch để bảo đảm người dân và doanh nghiệp có khả năng tiếp cận,
hiểu rõ phạm vi để chính sách hỗ trợ đến đúng đối tượng.
Gói
hỗ trợ thông qua chính sách miễn, giảm thuế, phí đang được thực hiện một cách
dàn trải nên ít có tác động đến đối tượng cần thụ hưởng trong khi có thể gây
lãng phí ngân sách nhà nước. Vì vậy, cần thu hẹp đối tượng thụ hưởng chính sách
này.
Riêng
các chính sách liên quan đến an sinh xã hội phải được xếp thứ tự ưu tiên hàng đầu
nhằm tiếp tục duy trì thực hiện theo hướng sớm sửa đổi điều kiện và cách thức
thực hiện vì dịch Covid-19 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, có thể tái bùng
phát bất kỳ lúc nào.
Bên
cạnh đó, Việt Nam nên kiên trì với những cải cách dài hơi hơn để cải thiện nền
tảng vĩ mô và giảm thiểu rủi ro trong tương lai. Những giải pháp mang tính dài
hạn để chuyển đổi căn bản mô hình tăng trưởng, gia tăng chất lượng tăng trưởng
cần được kiên quyết thực hiện với quyết tâm chính trị cao nhất. Có như vậy, nền
kinh tế mới có thể duy trì sản xuất trong đại dịch, hồi phục nhanh chóng sau đại
dịch và tiến tới phát triển bền vững.
Theo
PGS, TS Trần Đình Thiên, lợi thế của Việt Nam ở giai đoạn phục hồi là có thể tận
dụng thắng lợi trong chống dịch để đứng lên sớm hơn so thế giới. Vấn đề của năm
2021 không chỉ có phòng, chống Covid-19 mà nền kinh tế còn phải đương đầu với
nhiều khó khăn mới cũng như nhiều vấn đề khác vẫn đang tồn tại. Nếu nhìn ra được
những vấn đề đó và tận dụng cơ hội để hành động, Việt Nam sẽ thành công trong
tương lai.
Chuyên
gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, ông Jacques Morisset, cho rằng,
Việt Nam là một câu chuyện thàng công về khả năng chống chịu trong đại dịch Covid-19
với thiệt hại kinh tế ít hơn so nhiều quốc gia khác; thất nghiệp được hạn chế,
vay nợ công ít, dự trự ngoại hối tăng mạnh; tăng dấu ấn trong thương mại toàn cầu...
Để
có thể tiến nhanh hơn nữa trong tương lai, Việt Nam cần thực hiện bốn cải cách
đa lĩnh vực, bao gồm chuyển dịch ưu đãi; chia sẻ thông tin; minh bạch để nguồn
lực được phân bổ hiệu quả và cạnh tranh trong đổi mới sáng tạo.

Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét