Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 - Sự kiện mang giá trị và tầm vóc thời đại
Năm
1954, trên đại ngàn Tây Bắc đất nước, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạp bằng mọi khó khăn thử thách, đập
tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp và
can thiệp của đế quốc Mỹ, dựng lên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân
tộc, đồng thời làm “chấn động địa cầu”, tác động mạnh đến phong trào đầu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Trận
quyết chiến chiến lược
Đến
năm 1953, sau 8 năm trở lại xâm lược Đông Dương, dù đã huy động tiềm lực kinh tế,
quân sự đến mức cao nhưng thực dân Pháp vẫn không đạt được mục đích cơ bản đề
ra là tiêu diệt chính phủ cách mạng và lực lượng kháng chiến, thiết lập lại nền
cai trị trên toàn Đông Dương như trước năm 1945. Trái lại, chúng phải chịu những
tổn thất nặng nề: bị thiệt hại 390.000 quân, vùng chiếm đóng thu hẹp, mâu thuẫn
giữa tập trung và phân tán lực lượng ngày càng sâu sắc...
Mặt
khác, những khó khăn về kinh tế, tài chính và phong trào đấu tranh của các tầng
lớp nhân dân trong nước ngày càng dâng cao đẩy chính phủ Pháp rơi vào cuộc khủng
hoảng chính trị mới. Lợi dụng tình thế này, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào
Đông Dương, tích cực viện trợ cho Pháp kéo dài và mở rộng cuộc chiến nhằm phục
vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
Tháng
5/1953, chính phủ Pháp cử tướng Nava - người được đánh giá là “một nhà chiến lược
văn võ kiêm toàn” sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương với hy vọng
sớm giành thắng lợi quân sự quyết định, tìm “lối thoát danh dự” dứt điểm cuộc
chiến tranh. Sau một thời gian tìm hiểu tình hình chiến trường, tháng 7/1953,
tướng Nava đề ra kế hoạch quân sự mới ở Đông Dương (còn gọi Kế hoạch Nava), gồm
hai bước.
Bước
1 (Thu Đông năm 1953 và Xuân năm 1954): giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiến
trường miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực đối phương; tiến công chiến lược ở
chiến trường phía nam, đánh chiếm các căn cứ kháng chiến, trước hết là vùng tự
do Liên khu 5 và Khu 9 của cách mạng; đồng thời ra sức bắt lính mở rộng ngụy
quân, tập trung xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh.
Bước
2 (từ Thu Đông năm 1954): dồn lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện các
đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt quân chủ lực đối phương để giành thắng lợi
quyết định, buộc chính phủ kháng chiến phải đầu hàng, hoặc chấp nhận đàm phán kết
thúc chiến tranh theo những điều kiện do Pháp đặt ra.
Cả
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đánh giá kế hoạch Nava là “hoàn hảo, phù hợp”,
sẽ mang đến thắng lợi trong vòng 18 tháng!
Thực
hiện kế hoạch quân sự mới đề ra, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân đánh
phá, càn quét bình định, ra sức bắt lính; đồng thời đưa thêm nhiều đơn vị quân
viễn chinh vào Đông Dương. Chỉ sau một thời gian ngắn, địch đã củng cố, xây dựng
được 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng
Bắc Bộ.
Về
phía ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn,
đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân 1953 - 1954: Sử dụng
một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch tương đối yếu,
có nhiều sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có
thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở
khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết
trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ
lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược
là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc
thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.
Chấp
hành chủ trương chiến lược đã đề ra, quân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng với
quân dân hai nước bạn Lào và Campuchia mở các cuộc tiến công trên khắp chiến
trường Đông Dương buộc Pháp phải phân tán lực lượng đối phó. Khối chủ lực cơ động
của địch từ chỗ tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc Bộ, chỉ sau một thời gian ngắn,
chính thức “bị xé nát” thành 5 mảnh, đứng chôn chân trên 5 khu vực (Đồng bằng Bắc
Bộ, Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào) mà hầu như không thể hỗ trợ được
cho nhau.
Phối
hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, ở chiến trường sau lực địch, ta đẩy mạnh
chiến tranh du kích nhằm bảo vệ căn cứ kháng chiến, chia cắt giao thông, tiến
công diệt thêm đồn bốt, căn cứ hậu cần, uy hiếp hệ thống phòng tuyến bên ngoài
của địch... Sự phối hợp chiến đấu nhịp nhàng, rộng khắp đã đẩy quân Pháp lún
sâu vào thế bị động. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.
Tại
mặt trận Tây Bắc, từ tháng 11/1953, trước sự tiến công của quân ta, bộ chỉ huy
quân Pháp ở Đông Dương quyết định điều quân xây dựng Điện Biên Phủ thành tập
đoàn cứ điểm mạnh. Trong toan tính của tướng Nava, Điện Biên Phủ giữ vị trí chiến
lược quan trọng nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào. Mặt khác, nơi đây là thung
lũng phì nhiêu (dài 18 km, rộng 6 – 8 km), giàu có nhất vùng Tây Bắc. Không
gian và địa thế đó cho phép xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm thu hút và
đánh bại chủ lực đối phương.
Đến
đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên, gồm
những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh
nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm,
chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là “pháo đài
không thể công phá”, công khai thách thức đối phương tiến công.
Về
phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, nhất là so sánh tương quan lực
lượng địch - ta, Trung ương Đảng và Bộ chỉ huy tối cao đã quyết tâm mở chiến dịch
tiến công Điện Biên Phủ - đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao trọng trách
Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Với
khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho
chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm
3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại
đoàn công binh - pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được
huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp
cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau
một thời gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn
bị các mặt trên vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.
Ngày
13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Sau 56 ngày đêm chiến
đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không mòn”, chiều
ngày 7/5/1954, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ,
bắt sống tướng chỉ huy De Castries, kết thúc thắng lợi trận quyết chiến chiến
lược.
Ý nghĩa lịch sử trọng đại
Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 của quân dân Việt Nam đã đập tan những cố gắng quân sự
cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp
định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
kéo dài 9 năm (1945 - 1954). Đồng thời, chấm dứt ách thống trị của thực dân
Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam,
Lào, Campuchia.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới;
giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Nhà sử
học Pháp Jules Roy sau này đã thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới “Điện Biên
Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn
nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo
chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”.
Cũng
từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu
tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ la-tinh; đồng thời góp
phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thời đại ngày nay: Một dân
tộc bị áp bức, nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối
chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân
dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm lược
hung bạo. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một
cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống
dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên
cao đến thắng lợi hoàn toàn”.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nhân tố: đó là đường lối chính trị, đường
lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng; từ tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ
thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới
trong thời đại Hồ Chí Minh; bắt nguồn từ tình đoàn kết và liên minh chiến đấu
giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc,
Liên Xô và sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ
Pháp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất chính là từ tình yêu quê hương đất nước, là
khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của mỗi con dân đất Việt.
Chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học - kinh
nghiệm rất quý báu: giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng,
trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời
cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước
để giành thắng lợi quyết định; thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa
vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, không ngừng
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn
sàng thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những
trận quyết chiến; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy
liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây
dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học - kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên
giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

- 中央会议就国家重大问题作出结论
- Hội nghị Trung ương kết luận những vấn đề quan trọng của đất nước
- 越南社会主义法权国家的本质是不可歪曲的
- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 越南增长前景乐观
- 在越南社会主义法治国家建设中继续推进人民当家作主
- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- 批评“越南走向资本主义才能发展且顺应时代潮流”的观点
- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 灵活应对 坚决行动 促进恢复和发展
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét