Thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của Việt Nam - sự thực không thể bác bỏ
Thành
tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của Việt Nam hơn 90 năm qua
không những được nhân dân ta ghi nhận, mà còn được cộng động quốc tế đánh giá
cao. Nhưng, vẫn có một số phần tử xấu cho rằng, đổi mới đến nay đã hết động lực,
vậy nên từ sau Đại hội XIII không đổi mới nữa, hoặc nếu có đổi mới thì chính là
thay đổi về chế độ chính trị mà thôi.
Đây
là một loại luận điệu hết sức nguy hiểm, chống phá trắng trợn của các thế lực
thù địch, muốn lái Việt Nam đi theo con đường khác. Chúng ta có đủ luận cứ để
bác bỏ luận điệu sai trái đó.
Mục
tiêu nhất quán của Đảng và nhân dân ta là đấu tranh giành độc lập, tự do, thống
nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm
qua. Trong gần một thế kỷ đấu tranh, lao động, sáng tạo, Đảng và nhân dân ta đã
từng bước nhận thức đầy đủ hơn, hình dung rõ ràng hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Chúng ta thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó trong bối cảnh gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Song dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng đã đưa đất
nước ta vượt qua khó khăn, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và khởi xướng đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập với thế
giới.
30
năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (bổ sung phát triển năm 2011) và 35 năm đổi mới:
“đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng
lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, là nguồn lực quan trọng, là niềm tin để
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục
vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững
đất nước”. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được
hình thành, phát triển; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh; kinh tế vĩ mô ổn
định, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, chất lượng tăng trưởng được
cải thiện, quy mô và tiềm lực kinh tế đất nước tăng lên. Các lĩnh vực văn hóa,
xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, phát triển con người, quản lý
tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được coi trọng và đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Các chính sách, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói
giảm nghèo, chính sách dân tộc, tôn giáo được thực hiện có kết quả. Chính trị
xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố, dân chủ xã hội chủ nghĩa được tăng cường. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng được hoàn thiện.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Nhìn một cách tổng thể, mọi lĩnh vực
trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước được thực hiện một cách
đồng bộ, mạnh mẽ, hiệu quả, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng lòng ủng hộ,
tin tưởng, bạn bè quốc tế tín nhiệm.
Bản
chất và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới. Đổi mới là một cuộc vận động mang tính
cách mạng, khoa học, thay cái cũ bằng cái mới tốt hơn. Không phải bây giờ, mà
trong suốt quá trình cách mạng, chúng ta luôn thực hiện; song, công cuộc đổi mới
lần này mang tính
toàn diện, tổng thể, sâu sắc, liên tục, được chuẩn bị bài bản, theo cách thức của
ta và cân nhắc từng bước đi cụ thể, chắc chắn. Đổi mới đồng bộ, hài hòa giữa
kinh tế và chính trị, với mục tiêu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đổi mới để phát triển, đồng nghĩa với
phát triển, nhưng là sự phát triển trong thế ổn định, theo đúng định hướng và
con đường chúng ta đã chọn. Có người khuyên ta: cần tư nhân hóa nhanh hơn, hội
nhập thương mại nhanh hơn, phá giá
đồng tiền mạnh hơn. Lời khuyên đó dẫu có chân thành thì chúng ta cũng không thể
làm theo. Bởi, hơn ai hết, chúng ta hiểu rõ tình hình thực tế của đất nước và đặc
biệt quan trọng là: thực hiện đổi mới nhưng có nguyên tắc, đổi mới nhưng giữ vững
bản chất chế độ xã hội. Chúng ta thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, nhưng Nhà nước phải quản lý và điều
hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường;
đổi mới để phát triển kinh tế, nhưng sự phát triển đó phải đi đôi với thực hiện
công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Toàn bộ công cuộc đổi
mới gắn với mở cửa, hội nhập và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
là để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền vững; xây dựng và tăng cường
lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp; nâng tầm đất
nước lên trình độ mới, tầm cao mới. Vậy nên đổi mới chính là để hướng tới chủ
nghĩa xã hội, để hiện thực quá độ lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác lập rõ ràng
hơn. Đổi mới như một dòng chảy vận động liên tục cả guồng máy xã hội do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng, phát động, lãnh đạo, tổ chức thực hiện từ Đại hội VI của
Đảng (năm 1986) đến nay.
Về
động lực, nguồn lực của đổi mới. Nếu quan niệm động lực, nguồn lực là những yếu
tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển, thì động lực của đổi mới bao gồm
nhiều yếu tố có thể nhận biết được.
Một
là, yếu tố khơi nguồn động lực của đổi mới chính là việc định hướng, phát động
đúng thời điểm. Chúng ta xác định đổi mới phải theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là định hướng đúng vừa hợp thời, hợp quy luật, hợp lòng dân, vừa có sự
chắc chắn, vững tin. Chuẩn bị kỹ và phát động đổi mới đúng lúc, đồng thời với mở
cửa hội nhập nên chúng ta luôn chủ động, sáng tạo trong mọi tình huống. Do vậy,
chúng ta đứng vững và phát triển trong khi cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Đông
Âu bị thất bại.
Hai
là, những thành quả của sự nghiệp đổi mới 35 năm qua tiếp thêm luồng sinh khí mới,
tăng thêm động lực, tạo cho đất nước ta thế mới, lực mới, gia tốc mới. Thế mới,
lực mới là tổng hợp những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, là kết quả của
việc phát triển mọi mặt với sự thông thoáng trong nước và mở rộng quan hệ hợp
tác với bên ngoài. Gia tốc mới là khả năng vượt trội, là độ tăng trưởng liên tục
ở mức khá cao, tạo đà cho giai đoạn kế tiếp. Thế, lực, gia tốc mới tạo ra tầm
vóc và khả năng mới của đất nước. Đó không chỉ là khả năng đất nước vươn tầm mà
còn là năng lực mới mạnh mẽ để tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển.
Ba
là, yếu tố quyết định là động lực và những nguồn lực trong nước. Động lực quan
trọng phục vụ và thúc đẩy công cuộc đổi mới là tổng hợp các nguồn lực trong nước,
bao gồm không chỉ có vốn, tài sản đã tích lũy được mà còn là tài nguyên chưa
đưa vào sử dụng, là lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và quan trọng hơn hết
là nguồn lực con người, bao gồm cả sức lao động trí tuệ và tinh thần gắn với
truyền thống văn hóa dân tộc. Trong các nguồn lực đó, nguồn lực về tài nguyên
là khá phong phú; nguồn lực về đất đai, vị trí địa lý là khá thuận lợi; nguồn lực
về truyền thống là sâu sắc, đặc thù; nguồn lực về con người và trí tuệ vô cùng
to lớn.
Bốn
là, những nguồn lực từ bên ngoài là yếu tố quan trọng; nếu biết cách tranh thủ
sẽ tạo nên động lực cho công cuộc đổi mới đất nước. Nguồn lực bên ngoài bao gồm:
vốn, kỹ thuật - công nghệ, kinh nghiệm quản lý, chất xám, tinh hoa văn hóa nhân
loại. Trên cơ sở phải phát huy mọi nguồn lực trong nước, chúng ta có đầy đủ điều
kiện để có thể thu hút nguồn lực bên ngoài. Với việc mở rộng nhiều hình thức,
có bước đi, biện pháp và chính sách ưu đãi thích hợp, sẽ khuyến khích mạnh mẽ
việc hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Đặc biệt là
thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Năm
là, sự phù hợp giữa “ý Đảng” và “lòng dân” là động lực mang tính quyết định đối
với sự nghiệp đổi mới. Động lực đó bắt nguồn từ năng lực sáng tạo, bản lĩnh trí
tuệ của Đảng và nhân dân ta, thể hiện ở trình độ đoán định, nắm bắt những yếu tố
và những vấn đề của thời cuộc, dự kiến đúng tình huống, xác định đường đi nước
bước rõ ràng, sẵn sàng tạo lập và nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy cơ, vượt qua
thách thức đưa đất nước đi lên. Do đổi mới phù hợp giữa “ý Đảng” và “lòng dân”,
nên khi Đảng ta phát động, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tạo thành động lực to
lớn thực hiện có hiệu quả sự nghiệp đổi mới đất nước.
Thành
tựu của sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam sáng tỏ
như ban ngày, không thế lực đen tối nào có thể che phủ được. Đến nay, quy mô nền
kinh tế Việt Nam đạt 343 tỉ USD, trong tốp 40 nền kinh tế lớn của thế giới và đứng
thứ 4 trong ASEAN; GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 3.500 USD; nằm trong
tốp 10 quốc gia tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới và là một trong 16 nền
kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Nhận xét về Việt Nam, tờ báo cánh tả
People’s World của Mỹ, ngày
25/01/2021 cho rằng: “Sở dĩ Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam thu hút sự
chú ý của quốc tế vì Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ trên trường quốc tế, trở
thành quốc gia hùng mạnh cả về kinh tế và ngoại giao”. Tờ The Straits Times nhật
báo tiếng Anh, được xuất bản tại Singapore, ngày 22/02/2021 khẳng định: “Vai
trò của Việt Nam trên trường quốc tế đã gia tăng trong những năm gần đây. Trên
cương vị Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2020, Việt Nam
đã dẫn dắt tổ chức khu vực này vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng Covid-19
và giúp kinh tế toàn khu vực (RCEP) vượt qua vạch đích để ký được hiệp định. Việt
Nam cũng là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2020 - 2021”. Đài truyền hình KBS của Hàn Quốc bình luận: “Việt Nam sau một thời
gian lao khổ, hôm nay đứng dậy sáng lòa cùng nhân loại. Việt Nam ngẩng cao đầu,
tự hào hòa đồng và đi lên cùng nhân loại”.
Rõ
ràng là toàn bộ sự nghiệp cách mạng gần một thế kỷ của Đảng và nhân dân ta
không chỉ đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, mà còn tiếp tục
được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú, hết sức to lớn, trong đó có những
nguồn lực không bao giờ cạn. Hành trình của sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi
mới phù hợp “ý Đảng” và “lòng dân” đã và đang kết hợp tất cả ba yếu tố: thiên
thời, địa lợi, nhân hòa. Đó là động lực lớn nhất, yếu tố cơ bản nhất tạo nên những
thành tựu mới to lớn hơn nữa thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao cả: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là
câu trả lời đanh thép của chúng ta.
GS,
TS. VŨ VĂN HIỀN, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

- 越南保护与发挥人权的成就和价值
- 在越南社会主义法治国家建设中继续推进人民当家作主
- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 灵活应对 坚决行动 促进恢复和发展
- Ứng phó linh hoạt, quyết tâm hành động để thúc đẩy phục hồi và phát triển
- 新闻自由必须在法律框架内
- Tự do báo chí phải trong khuôn khổ của pháp luật
- 为越南继续促进性别平等奠定坚实基础
- Nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới
- 必须停止对越南宗教的颠倒黑白、混淆是非的论调
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét