Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân là phù hợp quy luật và thực tiễn Việt Nam
“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”, là quan điểm được
Đại hội XIII của Đảng khẳng định. Song, có ý kiến cho rằng quan điểm này là
không phù hợp quy luật và thực tiễn. Đó là ý kiến sai trái cần kiên quyết đấu
tranh bác bỏ, nhất là hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang tích cực
chuẩn bị bầu đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ
2021 - 2026.
Việt
Nam là một trong những quốc gia có những hình thức tổ chức nhà nước (kiểu nhà
nước) sớm trên thế giới, nhưng biểu hiện rõ chức năng và được sử liệu ghi chép
khá đầy đủ là các nhà nước phong kiến từ sau khi Ngô Quyền lãnh đạo nhân dân ta
đánh tan quân Nam Hán năm 938. Trải qua những thăng trầm lịch sử, các triều đại
phong kiến đã để lại nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp, đặc trưng bản sắc dân
tộc, nhưng do vận động, phát triển không hợp quy luật, nên cũng đã lạc hậu và kết
thúc sứ mệnh của mình. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước được xây dựng theo hướng: “Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn dân Việt Nam”2, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở được xây dựng ngày càng hoàn thiện; Nhân dân phát huy “quyền
bính” của mình, cùng Nhà nước vượt qua khó khăn, thách thức, giành được nhiều
thành tựu to lớn trong các cuộc kháng chiến, cũng như cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới. Đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng lên, đúng như Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định: “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Vậy mà, các thế
lực thù địch, phần tử phản động lại xuyên tạc rằng: xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân là lặp lại lý luận “xưa cũ” về nhà nước siêu giai cấp, phi giai
cấp, nhà nước toàn dân,... của các học giả tư sản từ thế kỷ XIX. Số khác thì lý
sự: theo chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị,
không có nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phần đông ra sức cổ súy xây dựng nhà
nước tam quyền phân lập theo kiểu dân chủ tư sản, v.v. Thực chất, đây là những
quan điểm lạc hậu, không phù hợp với tiến bộ xã hội, cần được nhận diện và đấu
tranh bác bỏ, vì:
Nhà
nước của dân, do dân, vì dân là kết quả vận động hợp quy luật của xã hội. Từ vận
dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu lịch sử, C. Mác xem xã hội là một bộ
phận của tự nhiên và đã tìm ra quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất; quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng;
giai cấp và đấu tranh giai cấp; nhà nước và cách mạng xã hội, v.v. Ông khẳng định:
“Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử, tự nhiên”3. Theo đó, khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất đạt đến đỉnh điểm sẽ diễn ra cách mạng xã hội mở đường cho lực lượng sản
xuất thoát khỏi “xiềng xích” của quan hệ sản xuất đã lạc hậu, đưa đến sự ra đời
hình thái kinh tế - xã hội với đại diện là một giai cấp mới, thiết lập nhà nước
và chế độ xã hội trên cơ sở kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn; cứ như vậy làm
cho xã hội luôn vận động, phát triển từ thấp đến cao. Đến nay, nhân loại đã và
đang trải qua các kiểu nhà nước tương ứng với các giai cấp đại diện là: chiếm hữu
nô lệ do giai cấp chủ nô đại diện; phong kiến với đại diện là giai cấp phong kiến,
địa chủ; tư bản - đại diện là giai cấp tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa do
giai cấp vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản làm đại diện. Theo lý luận,
nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của giai cấp công nhân – giai cấp có sứ mệnh:
xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội
Cộng sản chủ nghĩa văn minh, “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó
là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”4. Để hoàn thành sứ mệnh đó,
giai cấp công nhân phải thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản để
lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng vô sản thủ tiêu giai cấp tư sản, thiết lập
chuyên chính vô sản, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đến giai đoạn mà
lao động trở thành nhu cầu cống hiến cao nhất, mọi cá nhân đều bình đẳng, được
phát triển toàn diện “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nhà nước hết vai
trò, sẽ tự tiêu vong. Như vậy, mục tiêu và lợi ích căn bản của giai cấp công
nhân phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân lao động. Vì thế, ở giai đoạn
xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản là phù hợp với quy luật và lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực
tiễn cho thấy, sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Liên xô và một loạt các
nước (bao gồm Việt Nam) đã thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đã trở thành hệ thống lớn mạnh,
đe dọa sự diệt vong chế độ tư bản trên toàn thế giới. Đáng tiếc là, những năm
cuối thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khác nhau, mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên
xô và các nước Đông Âu “chệch hướng” dẫn đến sụp đổ. Cùng thời điểm đó, Việt
Nam và một số nước đã vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp thực
tiễn, tiến hành đổi mới toàn diện đất nước và đã thu được nhiều thành tựu to lớn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) ghi rõ: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch
sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Nhà
nước của dân, do dân, vì dân là sự lựa chọn lịch sử Việt Nam. Sau tiếng súng
xâm lược (năm 1858), thực dân Pháp biến nước ta thành thuộc địa của chúng, nhân
dân ta bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn, cuộc sống lầm than, cơ cực; thậm chí, người
dân không được quyết định những những vấn đề tối thiểu thuộc về bản thân mình.
Tình cảnh đó đã thôi thúc phong trào đấu tranh kháng Pháp nổ ra ở khắp nơi, điển
hình như: Trương Định tổ chức nghĩa quân ở Gò Công, Tân An (1859 - 1864); Nguyễn
Trung Trực chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy Vọng (Espérance) của Pháp trên
sông Vàm Cỏ Đông, rồi lập căn cứ khắp vùng Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc
(1861 - 1868); Tống Duy Tân cùng Cao Điền dựng cờ khởi nghĩa ở Hùng Lĩnh, Thanh
Hóa (1886 - 1892); Phan Đình Phùng với “Chiếu Cần Vương” chiêu mộ nghĩa quân, lập
căn cứ ở vùng núi thuộc hai huyện Hương Sơn, Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh (1885 -
1896); Hoàng Hoa Thám thành lập nghĩa quân ở Yên Thế, đánh Pháp suốt 25 năm
(1887 - 1913), v.v. Mỗi phong trào diễn ra ở những nơi với thời điểm và người đứng
đầu khác nhau,... nhưng đều nhằm đánh đuổi giặc Pháp; song, do đường lối,
phương pháp, mục tiêu không phù hợp nên đều bị đàn áp đẫm máu. Trước đòi hỏi cấp
thiết của thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp và lãnh đạo
nhân dân làm lên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra Nhà nước công -
nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đó đến nay, các tầng lớp nhân dân ta luôn tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, đoàn kết, thống nhất,
tạo ra sức mạnh tổng hợp, lập lên những kỳ tích mang tầm thời đại, mở ra kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam từng bước sánh vai với
các cường quốc năm châu.
Xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là nguyện vọng của nhân dân, phù hợp thực
tiễn nước ta. Có thể nói, nguyện vọng lớn nhất của mỗi người dân Việt Nam trước
năm 1945 là: đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Đáp ứng ước nguyện đó, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời; ngày 06/01/1946, mỗi người dân Việt Nam
từ đủ 18 tuổi trở lên được tự tay cầm lá phiếu bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền
lực cao nhất của Nhà nước kiểu mới và bước vào cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Nhưng mấy chục năm sau đó, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã thay nhau xâm lược
nước ta (1946 - 1975), với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”6, Đảng, Nhà nước đã tập hợp,
lãnh đạo Nhân dân ta đoàn kết “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” và đã làm lên Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ (07/5/1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”,
Đại thắng Mùa Xuân (30/4/1975) thống nhất đất nước. Bước vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước, nhất là từ khi đổi mới đến nay, vai
trò, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ngày càng sáng tỏ: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân,... tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”.
Thực
tế là, thành viên trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở đều do Nhân dân
trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua đại diện) bầu ra và bãi miễn khi họ không
còn xứng đáng. Mọi hoạt động của nhà nước đều hướng tới: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; chính sách và chất lượng các lĩnh vực: y tế, giáo
dục, an sinh xã hội,... ngày càng hoàn thiện, nâng lên. Hiếm có quốc gia nào,
mà Nhà nước phát động phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo -
không để ai bị bỏ lại phía sau”, tỉ lệ xóa đói, giảm nghèo, các mục tiêu thiên
niên kỷ đều đạt và vượt chỉ tiêu được thế giới ca ngợi. Để hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực bởi đại dịch Covid -19 và thảm họa thiên tai ở các tỉnh miền Trung năm
2020, Nhà nước chi hàng trăm nghìn tỷ đồng hỗ trợ nhân dân, lao động mất việc,
khắc phục hậu quả thiên tai, v.v. Việc cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ
điện tử “liêm chính, kiến tạo”, chuyển đổi số,... đã và đang giúp người dân trực
tiếp tương tác với Chính phủ ngày càng nhiều hơn, Chính phủ quản lý, điều hành,
phục vụ Nhân dân ngày càng tốt hơn. Mọi người được tham gia đóng góp ý kiến vào
các văn bản hoạch định đường lối lãnh đạo trình Đại hội của Đảng, cũng như quá
trình xây dựng, sửa đổi bổ sung Hiến pháp, pháp luật. Nhân dân ta ngày càng
phát huy vai trò, trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của hệ thống
chính trị, phát hiện, tố giác những hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân, góp
phần giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế. Công tác điều tra, xét xử bảo đảm
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, công khai, bình đẳng “không có vùng cấm”,
góp phần giữ vững niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Xây
dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
là quá trình vận động, phát triển hợp quy luật, phù hợp tiến bộ xã hội đã được
thực tiễn Việt Nam kiểm nghiệm, mọi luận điệu trái với đường lối này đều cần nhận
diện, đấu tranh bác bỏ.

- Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về nền kinh tế thị trường XHCN trong tình hình mới
- 越南继续主动、积极为促进世界人权事业贡献力量
- Việt Nam tiếp tục chủ động đóng góp thúc đẩy nhân quyền trên thế giới
- 中央会议就国家重大问题作出结论
- Hội nghị Trung ương kết luận những vấn đề quan trọng của đất nước
- 越南社会主义法权国家的本质是不可歪曲的
- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 越南增长前景乐观
- 在越南社会主义法治国家建设中继续推进人民当家作主
- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- 批评“越南走向资本主义才能发展且顺应时代潮流”的观点
- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét