Bầu cử ở Việt Nam - dân chủ và tiến bộ
Ngày
23/5/2021, cử tri cả nước tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 (Cuộc bầu cử) thành công tốt đẹp. Đây
chính là câu trả lời đanh thép phản bác luận điệu xuyên tạc về tính dân chủ, tiến
bộ của bầu cử ở Việt Nam mà một số người ra sức thực hiện nhằm phục vụ những
mưu đồ chính trị đen tối.
Dân
chủ là một nội dung quan trọng, xuyên suốt của mục tiêu cách mạng Việt Nam;
trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện
trực tiếp, thông qua cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra. Cũng như các cuộc bầu
cử trước, nêu cao trách nhiệm công dân, cử tri cả nước đã gửi trọn niềm tin
thông qua lá phiếu bầu chọn đại biểu xứng đáng hơn trong số các đại biểu xứng
đáng vào cơ quan quyền lực của Nhà nước và địa phương, làm cơ sở để Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp thể chế hóa mục tiêu: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”1. Thành
công của Cuộc bầu cử một lần nữa khẳng định bầu cử ở Việt Nam là hết sức dân chủ
và tiến bộ. Sự dân chủ và tiến bộ ấy được thể hiện trên một số nội dung cơ bản
sau:
Một
là, mục đích bầu cử ở Việt Nam là nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - quan điểm nhất quán của Đảng,
Nhà nước ta trong suốt tiến trình cách mạng. Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Vì vậy, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua lá phiếu cử tri để
bầu cơ quan quyền lực Nhà nước và ở địa phương: “Tổng tuyển cử là một dịp cho
toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công
việc nước nhà... Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử
ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”2. Cuộc Tổng tuyển cử
đầu tiên được tổ chức vào ngày 06/01/1946, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt vĩ
đại của dân tộc ta về thể chế dân chủ theo xu hướng phát triển tiến bộ của lịch
sử nhân loại.
Kể
từ đó, dù trong hoàn cảnh lịch sử khó khăn, khắc nghiệt nào, Đảng và Nhà nước
ta cũng kiên trì thực hiện chế độ bầu cử dân chủ để xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, Hiến pháp nước ta quy
định rõ: mọi cử tri có đầy đủ quyền bầu cử, ứng cử và quyền bãi miễn đối với đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đảng ta luôn nhất quán chủ
trương lãnh đạo, chỉ đạo bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thật dân
chủ, công khai, minh bạch, lựa chọn được những người có đức, có tài, đủ năng lực
đảm đương những trọng trách của quốc gia, dân tộc. Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày
20/6/2020 của Bộ Chính trị về lãnh đạo Cuộc bầu cử, yêu cầu: “Kiên quyết không
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp những người
không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người sa sút về phẩm chất đạo
đức, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, xu nịnh, kiêu ngạo, quan liêu, gây mất
đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước”. Sự chỉ đạo cương quyết ấy
nhằm hướng tới: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục
vụ và vì sự phát triển của đất nước”3.
Hai
là, bầu cử ở Việt Nam tiến hành dựa trên nguyên tắc dân chủ và tiến bộ. Bầu cử
là một thiết chế để bảo đảm dân chủ, thực hành và thực thi dân chủ. Quá trình bầu
cử phải được thực hiện dựa trên hệ thống những nguyên tắc căn bản, được cụ thể
hóa bởi luật bầu cử của mỗi nước. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân nước ta quy định bốn nguyên tắc bầu cử: “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp
và bỏ phiếu kín”.
Nguyên
tắc phổ thông đầu phiếu để bảo đảm mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ,
thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn
cư trú (trừ những người mất trí hay những người bị tước quyền bầu cử trên cơ sở
của pháp luật), đến tuổi trưởng thành đều được quyền bầu cử. Mọi công dân cư
trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri và được
niêm yết công khai chậm nhất là 40 ngày trước ngày diễn ra bầu cử; danh sách ứng
cử viên được lập và niêm yết công khai chậm nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra
bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa chọn.
Nguyên
tắc bình đẳng quy định: mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với một cuộc bầu cử và
giá trị phiếu bầu như nhau không phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc,
tôn giáo, v.v. Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư
trú; mỗi ứng cử viên chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử; mỗi cử tri chỉ
được bỏ một phiếu bầu. Nguyên tắc này còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ
cấu, thành phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng,
miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ
lệ đại biểu thích đáng. Riêng Quốc hội khóa XIV, đại biểu là nữ 133 người (chiếm
26,80%); dân tộc thiểu số 86 người (chiếm 17,30%); ngoài Đảng 21 người (chiếm
4,20%); tự ứng cử 02 đại biểu; có 15 ứng cử viên do Trung ương giới thiệu không
trúng cử; 01 người (ông Trịnh Xuân Thanh) bị Hội đồng bầu cử quốc gia không
công nhận tư cách đại biểu Quốc hội.
Nguyên
tắc trực tiếp thể hiện: cử tri không được nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng
cách gửi thư. Cử tri tự bỏ lá phiếu bầu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri không
thể tự viết phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu;
người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật
không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trường hợp cử
tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử
mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến nơi ở của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu
và thực hiện các thủ tục bỏ phiếu.
Nguyên
tắc bỏ phiếu kín để bảo đảm khách quan trong việc lựa chọn của cử tri. Cử tri bầu
ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật; khi cử tri viết phiếu bầu không ai được
đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai được biết
và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri; cử tri viết phiếu bầu trong buồng
kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Bốn
nguyên tắc trên là một chỉnh thể thống nhất, thể hiện rõ tính dân chủ và tiến bộ
của thể thức bầu cử mà Việt Nam đang thực hiện. Để đảm bảo những nguyên tắc này
được thực thi, Nhà nước đã cụ thể hóa nội dung của chúng thành những quy phạm
pháp luật khác nhau. Tất cả các cuộc bầu cử ở Việt Nam đều thực hiện nghiêm,
theo đúng những quy phạm pháp luật ấy.
Ba
là, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị,
toàn thể nhân dân trong tiến hành công tác nhân sự cho bầu cử. Công tác nhân sự
nhằm bảo đảm phát huy dân chủ và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng
trong công tác cán bộ. Đảng lãnh đạo việc giới thiệu cán bộ, đảng viên trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Những
người được giới thiệu đều bảo đảm tiêu chuẩn, thực sự tiêu biểu về phẩm chất, đạo
đức và năng lực, có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, có điều kiện thực
hiện nhiệm vụ tham gia làm đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Cuộc
bầu cử lần này, Đảng, Nhà nước và Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều quy định
nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng ứng cử viên đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Cùng với đó, việc thực hiện quy trình năm bước của hiệp thương, giới
thiệu người ứng cử cũng giúp cho công tác nhân sự được tiến hành kỹ lưỡng, cẩn
trọng, có sự tham gia của toàn thể nhân dân và hệ thống chính trị. Các khâu,
các bước hiệp thương, giới thiệu ứng cử viên và các hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc
giữa cử tri với người được giới thiệu ứng cử được tổ chức chặt chẽ, đảm bảo dân
chủ, bình đẳng, đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để người
được giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử trình bày chương trình hành động của
mình; qua đó, cử tri tìm hiểu, đánh giá. Quy trình đó đã thể hiện rõ dân chủ và
bầu cử gắn bó mật thiết như hình với bóng; bầu cử là tự do và trung thực, vì một
chế độ dân chủ ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Bốn
là, bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được sự hưởng ứng nhiệt
thành của mọi tầng lớp nhân dân, thực sự là Ngày hội của toàn dân. Ngay từ cuộc
Tổng tuyển cử đầu tiên (ngày 06/01/1946) được tổ chức trong điều kiện đất nước
vô cùng khó khăn: “thù trong, giặc ngoài”, nhưng đại đa số nhân dân xúc động, tự
hào tham gia bầu cử vì “... ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta
bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”4, lựa chọn những đại biểu ưu tú tham
gia cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân. Trong thực tiễn hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, các đại
biểu luôn phát huy vai trò người đại biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân dân, thực hiện tốt các chức năng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước. Đặc biệt, các phiên chất vấn, tranh luận trên diễn
đàn Quốc hội thời gian qua luôn thu hút sự quan tâm của nhân dân cả nước, bởi
không khí sôi nổi, ngắn gọn, thẳng thắn, nội dung đặt ra đúng trọng tâm, trọng
điểm, đi đến tận cùng mọi sự việc. Đó thực sự là những tiếng nói tâm huyết, trí
tuệ, đại diện cho quyền lực của nhân dân. Đồng thời, là minh chứng khẳng định:
Quốc hội Việt Nam luôn là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; là cơ quan đại biểu cao nhất của quyền lực
Nhà nước và của nhân dân; gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với các cử tri,
luôn luôn đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Vì
thế, trong mỗi cuộc bầu cử, mọi tầng lớp nhân dân đều phấn khởi, tin tưởng, tự
do thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền làm chủ của mình thông qua lá phiếu
bầu. Và ngày bầu cử đã trở thành Ngày hội của toàn dân tộc Việt Nam. Đó là minh
chứng sống động khẳng định sự dân chủ và tiến bộ trong bầu cử ở Việt Nam.
TS.
NGUYỄN MINH CƯỜNG, Trường Sĩ quan Chính trị

- Hội nghị Trung ương kết luận những vấn đề quan trọng của đất nước
- 越南社会主义法权国家的本质是不可歪曲的
- Không thể xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- 越南增长前景乐观
- 在越南社会主义法治国家建设中继续推进人民当家作主
- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- 批评“越南走向资本主义才能发展且顺应时代潮流”的观点
- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
- 越南在实施人权进程中的努力
- Nỗ lực của Việt Nam trong trong thực hiện quyền con người
- 灵活应对 坚决行动 促进恢复和发展
- Ứng phó linh hoạt, quyết tâm hành động để thúc đẩy phục hồi và phát triển
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét