Hồ Chí Minh - Hành trình tìm đường cứu nước và tầm nhìn thời đại
Chủ
tịch Hồ Chí Minh - vĩ nhân của thời đại chúng ta, có vai trò, đóng góp lớn lao
đối với sự phát triển của lịch sử Việt Nam và lịch sử nhân loại. Với tầm nhìn
thời đại, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, làm
thay đổi vận mệnh của cả dân tộc - từ thân phận nô lệ thành một dân tộc độc lập,
tự do và góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cuộc
đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là tấm gương sáng ngời
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người trên
toàn thế giới.
Chúng
ta biết rằng, cuối thế kỷ XIX, nước Việt Nam phong kiến độc lập đã biến thành
nước thuộc địa nửa phong kiến do sự xâm lược của thực dân Pháp. Một lẽ tự
nhiên, sự phản kháng của nhân dân thể hiện qua các phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp theo những ngả đường và khuynh hướng khác nhau đã liên tiếp nổ
ra, nhưng kết cục đều thất bại, không có đường ra. Điều này thể hiện mâu thuẫn
giữa sức sống, tinh thần đấu tranh anh dũng, bền bỉ của dân tộc với sự khủng hoảng
về đường lối cứu nước, về giai cấp tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh.
Nguyễn
Tất Thành - Hồ Chí Minh rất khâm phục ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc của
các bậc tiền bối, nhưng không tán thành đường lối cứu nước của họ. Trong bối cảnh
những năm đầu thế kỷ XX, vào tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Người đi sang phương Tây, nhưng
không phải đi tìm chỗ dựa, hoặc cầu viện các thế lực bên ngoài để cứu nước, mà
là đi xem các nước làm như thế nào về giúp đồng bào mình.
Quyết
định sang Pháp là một quyết định có ý nghĩa lịch sử, thể hiện rõ tầm nhìn, tư
duy độc lập, sáng tạo của Người. Hồ Chí Minh đã mở tầm nhìn ra thế giới, sẵn
sàng tiếp biến tinh hoa, trí tuệ của thời đại. Người phân tích, đánh giá ý
nghĩa các sự kiện lớn trên thế giới, đặc biệt là các cuộc cách mạng xã hội. Bắt
đầu từ lòng yêu nước, sự nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ, dựa trên tiêu chí
ai, tổ chức nào bênh vực các dân tộc thuộc địa, ủng hộ và đoàn kết với họ trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, Người
đã định hình ra con đường để đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân
dân mình.
Tại
Pa-ri thủ đô nước Pháp, lúc này được coi là “trung tâm liên minh thế giới của bọn
đế quốc”, Người đã có một bước phát triển mới trong nhận thức về con đường cứu
nước khi tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Mặc dù,
chưa hiểu hết ý nghĩa cực kỳ to lớn của Cách mạng Tháng Mười, nhưng với Người,
đây là một biến cố to lớn, “có một sức lôi cuốn kỳ diệu vô cùng”. Đặc biệt, từ
tháng 7-1920, khi tiếp xúc với bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lê-nin, Người đã tìm thấy ở Luận cương
những giải đáp về con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa, trong đó có
Việt Nam.
Cuộc
hành trình tìm đường cứu nước tháng 6-1911 của Nguyễn Tất Thành là cuộc tìm kiếm
một con đường tranh đấu không chỉ nhằm giải quyết một mục tiêu như các bậc tiền
bối: giành độc lập dân tộc, mà có mục tiêu “kép” là cứu nước và cứu dân. Chính
vì vậy, quyết định đi sang phương Tây của Nguyễn Tất Thành là sự đoạn tuyệt đối
với mô hình chính trị nhà nước quân chủ, phong kiến phương Đông, mở đầu cho quá
trình nghiên cứu, tìm hiểu xã hội phương Tây.
Bằng
khảo nghiệm các mô hình thể chế chính trị, mô hình nhà nước trên thế giới và tổng
kết thực tiễn Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc và Đảng đã đi tới lựa chọn mô hình cộng
hòa dân chủ, tạo nên động lực cho cao trào vận động dân chủ sôi nổi trong những
năm 1936 - 1939. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng tiếp tục tìm tòi, khảo nghiệm và đi tới lựa chọn thể
chế chính trị, mô hình nhà nước thích hợp hơn, đó là thể chế Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Thể
chế chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là mô hình nhà nước, là thể chế chính
trị mới được Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng xác định tại Hội nghị Trung ương lần
thứ 8, tháng 5-1941. Mặt trận Việt Minh là một kiểu nhà nước tiền chính phủ với
chương trình hành động thể hiện rõ quyền lực thuộc về nhân dân, một thể chế
chính trị xã hội quá độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mô hình thể chế
đó là động lực, là ngọn cờ vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam vùng lên làm cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xác lập
được một thể chế chính trị xã hội mới theo sự tìm chọn của Nguyễn Ái Quốc, vì mục
tiêu độc lập dân tộc, dân quyền và dân sinh, tự do, hạnh phúc. Cùng với việc
tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới, Hồ
Chí Minh còn là người thiết kế các giá trị thuộc về nhân cách và phẩm giá con
người Việt Nam.
Với
việc nắm bắt chính xác đặc điểm, xu thế của thời đại, Hồ Chí Minh đã xác định
con đường phát triển cho dân tộc phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử -
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không chỉ thể hiện sự khác nhau về chất
giữa con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh với con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến, hay hệ tư tưởng tư sản mà còn
thể hiện rõ nét sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội từ
sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, đã trở thành lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của
cách mạng Việt Nam.
Độc
lập dân tộc theo Hồ Chí Minh phải là một nền độc lập thực sự, hoàn toàn trên tất
cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, ngoại giao...
trong đó, trước hết và quan trọng nhất là độc lập thực sự, hoàn toàn về chính
trị. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình. Độc lập dân tộc phải đi tới tự
do hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ
nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, tự nó có khả năng tạo ra sự phát triển, khác rất
xa cái chủ nghĩa xã hội mà nhiều người ngộ nhận với những tiêu chí có tính áp đặt,
xa vời, phi hiện thực. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là hết sức
bình dị, gần gũi với cuộc sống thường ngày. Quan niệm chung nhất của Người về
chủ nghĩa xã hội - đó là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và toàn diện mọi nhu
cầu chính đáng của con người. Chính xuất phát từ quan điểm độc lập dân tộc phải
gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân mà Hồ Chí Minh hình thành nên triết
lý phát triển của một xã hội nhân văn, một mục tiêu với nội dung thống nhất của
cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay
từ những năm 20 của thế kỷ XX, trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
đã nhanh chóng nắm bắt được đặc điểm của thời đại mới, thời đại sau Cách mạng
Tháng Mười và tổng kết, khái quát thành những quan điểm lý luận về nhu cầu, khả
năng, điều kiện hợp tác giữa các dân tộc.
Sau
khi nắm bắt được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động tích cực để
gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người không chỉ xuất phát từ những
mục đích chính trị - xã hội của thời đại - độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, mà
còn vì sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất thế giới. Trong tư tưởng
của Người, hợp tác quốc tế là để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp các nước
trên thế giới và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước ta gắn liền với
những chuyển biến mang tính thời đại.
Với
tầm nhìn chiến lược đó, Người chủ trương mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng
như Mỹ, Nga hay Trung Quốc giúp cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia.
Trong lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Hồ Chí Minh nêu rõ: Nước Việt
Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước
ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng
các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế;
Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự
lãnh đạo của Liên hợp quốc... Sau khi miền bắc được giải phóng, Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế nhằm trao đổi, giao thương, tranh
thủ sự viện trợ kinh tế, kỹ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các lực
lượng dân chủ, hòa bình thế giới.
Trong
quan hệ hợp tác quốc tế, Hồ Chí Minh xác định chính sách đối ngoại của Việt Nam
là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Trong
bối cảnh quốc tế phức tạp, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khéo chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam theo con đường độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực của
toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, để giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Cách
đây vừa tròn 105 năm, năm 1911, từ thành phố Sài Gòn, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Bằng trí tuệ mẫn tiệp, siêu phàm,
tầm nhìn rộng mở, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng
sản, chiến sĩ quốc tế xuất sắc, tìm thấy con đường cứu nước duy nhất đúng đắn
cho dân tộc Việt Nam. Với tầm nhìn thời đại, Người đã làm sáng rõ con đường
cách mạng Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Ngày nay, trong công cuộc tiếp tục đổi mới toàn diện đất
nước, trên cơ sở những gợi mở, định hướng, dự báo từ tầm nhìn thời đại của Hồ
Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm vận dụng, phát triển một cách sáng tạo
những di sản ấy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

- 胡志明主席的思想道德和作风是越南民族的无价之宝
- Tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam
- 学习和实践胡伯伯与树标杆当表率的责任
- Học, làm theo Bác và trách nhiệm nêu gương
- 胡志明为越南民族谋求独立自由幸福的渴望
- Hồ Chí Minh với khát vọng Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam
- 胡志明主席与选择走社会主义发展道路
- 胡志明——寻找救国之路的历程及时代性视野
- 在越南社会主义法治国家建设中继续推进人民当家作主
- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- 批评“越南走向资本主义才能发展且顺应时代潮流”的观点
- Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét