Phê phán quan điểm “Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển và phù hợp với xu thế thời đại”
Những
biến cố dồn dập đầy kịch tính của thế giới trong mấy thập niên qua đã tác động
lớn đến tâm trí và nhận thức của mọi người. Nhất là sau sự sụp đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, các phần tử phản động và không ít người
“ăn theo” càng như được thể, hí hửng rằng chủ nghĩa xã hội, lý tưởng Cộng sản
đã hết thời; rằng Việt Nam phải đi theo chủ nghĩa tư bản mới phát triển được và
thế mới hợp thời, v.v.
Có
thể nhận rõ ngay đó là luận điệu thâm độc. Xem xét cả trên phương diện lý luận
và thực tiễn, chúng ta có đủ các luận cứ xác đáng để khẳng định sự lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, đầy sáng tạo, phù hợp với điều kiện
của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
1.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Nhân loại đã chứng kiến trong thế kỷ XIX - XX, chủ nghĩa tư bản đã tỏa vòi đi
khắp các châu lục để vừa “hút máu” nhân dân lao động ở chính quốc, vừa hút máu
nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Nhân dân Việt Nam đã trải qua những khổ
đau, cơ cực dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc nên thấy hết bản chất của
chủ nghĩa tư bản. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các phong trào yêu nước
đã dấy lên hết sức mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại. Chưa bao giờ như lúc bấy giờ,
công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam ở trong tình hình đen tối, không có đường
ra.
Nhưng
rồi lịch sử đã có lời giải đáp. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã là người gieo hạt,
gây mầm và tạo dựng cách mạng Việt Nam. Trong quá trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ánh sáng soi đường trong Luận cương của V.I. Lênin về
các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên khắp thế giới khỏi ách nô lệ”1. Với kỳ công của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, chủ
nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt
Nam chuyển hóa thành một sự kiện trọng đại: ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời. Vừa ra đời, Đảng ta tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Lời tuyên bố ấy đồng nghĩa với
việc bác bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; chủ nghĩa
xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt
Nam chuyển mình, là con đường mà dân tộc Việt Nam đã và đang đi theo dòng thời
đại.
Sự
lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng và
nhân dân ta, xét về logíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, hoàn toàn
phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại; xét về
nhu cầu, hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa
phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; xét về mặt xã hội,
đó là một hệ giá trị cơ bản lớn nhất quyết định sự phát triển của đất nước hôm
nay và mai sau. Vì thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng khẳng định: “Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”2;
“Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của lịch sử”.
2.
Chủ nghĩa tư bản không phải là xã hội tốt đẹp. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa
tư bản liên tục có sự điều chỉnh để thích nghi với bối cảnh mới và đã đạt được
nhiều thành công để tiếp tục tồn tại; mặc dù vậy, vẫn không thể khắc phục được
những ung nhọt và những căn bệnh cố hữu của nó. Bredinxky, người Mỹ gốc Ba Lan,
nguyên là cố vấn an ninh thời Tổng thống Mỹ Catơ, đã xuất bản cuốn sách “Ngoài
vòng kiểm soát, sự nổi loạn toàn cầu bên thềm thế kỷ XXI”. Đây là cuốn sách đưa
ra nhiều luận cứ cho các chiến lược của Mỹ. Dù đã cố tô vẽ cho bộ áo cánh sặc sỡ
của chủ nghĩa tư bản Mỹ, nhưng chính Bredinxky phải thừa nhận 20 vấn đề nan giải
của xã hội Mỹ. Trong đó nổi lên là: nợ nần; chăm sóc y tế không đầy đủ; giáo dục
trung học chất lượng kém; một giai cấp giàu có tham lam; vấn đề chủng tộc và
nghèo đói ngày càng sâu sắc; tội ác và bạo lực tràn lan; sự truyền bá ồ ạt về đồi
trụy tinh thần bằng phương tiện nghe nhìn, v.v.
Cho
dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có sự điều chỉnh nhất định trong những hình thức
quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục được mâu thuẫn
cơ bản vốn có của nó. Biểu hiện cụ thể:
Thứ
nhất, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Sự phân cực giàu nghèo và tình trạng bất
công xã hội tăng lên, chứng tỏ bản chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại,
dù được biểu hiện dưới những hình thức tinh vi hơn. Cả sự bần cùng hóa tuyệt đối
lẫn tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Trong xã hội tư bản ngày
nay, sự bất bình đẳng và các tệ nạn xã hội vẫn tồn tại một cách phổ biến; sự
suy đồi về xã hội, văn hóa và đạo đức ngày càng trầm trọng. Tệ phân biệt chủng
tộc, tình trạng bất công đã làm tăng các tệ nạn xã hội và trở thành một thách
thức gay gắt. Tội ác và bạo lực tràn lan. Ngày nay, trong xã hội tư bản, sự tha
hóa không chỉ diễn ra trong lao động mà còn diễn ra trong mọi mặt của đời sống
xã hội. Không những môi trường tự nhiên mà cả môi trường xã hội cũng bị ô nhiễm
và hủy hoại. Đời sống văn hóa và đạo đức của xã hội tư bản xuống cấp nghiêm trọng.
Thứ
hai, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc.
Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển
bị lệ thuộc với những nước đế quốc.
Thứ
ba, mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung
tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu), giữa
các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia.
Thứ
tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn này vẫn tồn
tại một cách khách quan, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Trên thực tế, mâu thuẫn này biểu hiện trong mưu đồ của các thế
lực đế quốc, lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một số nước để
đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt bằng mọi thủ đoạn (không loại trừ sự can thiệp
bằng quân sự) nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Nhưng do điều kiện
quốc tế đã có những thay đổi: giữa một số nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
đã thiết lập quan hệ chính thức về mặt nhà nước, có quan hệ vừa hợp tác vừa đấu
tranh về nhiều mặt, do vậy mâu thuẫn này ngày nay biểu hiện chủ yếu bằng “diễn
biến hòa bình” và chống “diễn biến hòa bình”. Tuy hình thức biểu hiện có khác
trước, nhưng đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là cuộc đấu
tranh rất quyết liệt.
Thực
tế thời gian qua, một số nước Đông Âu và ở Liên Xô sau khi chế độ xã hội chủ
nghĩa tan rã đã đi theo con đường chủ nghĩa tư bản nhưng đã qua 30 năm mà không
hề giàu có, ngược lại đã vấp phải những khó khăn chồng chất về kinh tế - xã hội
và nhiều người đã nuối tiếc những năm tháng trước đây, khi còn hệ thống xã hội
chủ nghĩa.
Để
hiểu rõ hơn vì sao chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xin
trích dẫn những luận cứ đầy sức thuyết phục của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng,
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài viết “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là
thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm
giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng
tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công “cá lớn
nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một ít cá nhân và phe nhóm. Chúng ta cần sự
phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong
lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm
đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng
ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, chứ không
phải chỉ cho một thiểu số giàu có”. Đồng thời, khẳng định “Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam”.
3.
Việt Nam đã thành công và kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển
của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là
lôgíc phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm
nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới. Nhận
thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, từ năm 1930 đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn
vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân phong kiến, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nước ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do;
thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Qua
hơn 75 năm giành, giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đặc biệt 35 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng ta xứng đáng tiêu biểu
cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tỏ rõ
tính độc lập tự chủ trong đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa nước
ta từ một xứ thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do,
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở
thành người chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta ra khỏi tình trạng đói
nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc
tế; có quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở, có vị thế ngày càng cao trên trường
quốc tế. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, chúng ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đó là sự khẳng định về
tính đúng đắn tuyệt đối của Đảng và Nhân dân ta lựa chọn con đường chủ nghĩa xã
hội.
Như
vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu,
là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực,
là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi
của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.
Đã
qua hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy
biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng
đồng quốc tế. Thế giới đã chứng kiến bao cảnh đau thương của nhiều dân tộc ở
châu Phi, ở Trung Đông, dù đã giành được độc lập nhưng đất nước bị hoang tàn bởi
các xung đột chia rẽ nội bộ và sự can thiệp từ bên ngoài. Ngay một số nước dù
có độc lập dân tộc nhưng việc tranh giành giữa các lực lượng chính trị trong nước
làm cho tình hình luôn nóng bỏng, cuộc sống của nhân dân không được bình yên. Vậy
nên, dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu
hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi
những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là
quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi
to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
(Nguồn: Tạp chí QPTD)
Hot (焦点)
-
胡志明是二十世纪越南革命杰出的马克思主义思想家。他老人家的思想是马克思列宁主义在符合越南的条件和历史背景基础上的运用、发展与创新,体现着时代精神及现代与当代世界的运动与发展趋势。 1 、胡志明思想、道德、风格体系的道德榜样。他老人家的思想合成了越南革命及革命之路的战略策...
-
为维护国家海岛主权,越南历代封建王朝都着重投资建设强大的水军力量。越南丁、李、陈、黎、阮等王朝的水军力量不断得到加强和完善。这支水军为捍卫祖国事业作出了巨大贡献,在各个阶段留下了历史烙印。 至今还收藏的古籍显示,越南历代封建王朝早已对黄沙群岛和长沙群岛确立主权、实施...
-
1954 年《日内瓦协议》签署之后,越南暂时被分成南北两方不同政治制度的政体。据此,越南北纬 17 度以南的领土(包括黄沙、长沙两群岛)由越南共和国政府管辖。根据《协议》规定,法国殖民者被迫撤离越南之后,西贡政权立即派遣海军力量接管黄沙、长沙两群岛并对其行使主权。与此同时,...
-
(VOVWORLD) - 越南伟大领袖胡志明主席的思想、道德、作风、革命生涯是越南全党、全民学习和实践胡志明道德榜样的生动和具有说服力的楷模。至今,越南开展学习和实践胡志明道德榜样运动已有 8 年并取得多项重要结果。 胡志明主席在其革命生涯中牺牲个人利益,为祖国和人...
-
越南的黄沙群岛位于东海(中国称南海)北边,处于北纬 15°45′ 至 17°15′ 、东经 110° 至 113° ,距越南广义省李山岛约 120 海里。黄沙群岛由 37 多个岛、洲、礁和沙滩组成,分为西面和东面两个群岛。东面为安永群岛(中国称宣德群岛),由 12 个岛、洲...
-
数十年来,中国人拿出大量书籍、资料和史料,企图证明从两千年前的汉朝起,中国人就发现了西沙和南沙(即越南的黄沙群岛和长沙群岛),从而说古代中国发现西沙南沙群岛就足够证明中国对西沙和南沙的不可争议的领土主权。据说,中国人最迟于唐宋发现南沙群岛至今,就一直在岛上及其海域从事生产活...
-
越南对黄沙、长沙两座群岛的主权不仅在越南古籍和古文献中有记载,而且还出现在西方航海家和传教士等的书籍、报纸、地图、日记、航路指南等外国资料中。这些资料描述黄沙、长沙“是越南中部海上的一块沙渚…”,这和越南同一历史时期资料和古地图描述的类似。法国 1936 年在印度支那建立的...
-
BDN - 位于东海边国土陆地呈 “S” 字形的越南,无形中拥有沿着国土走向三千公里海岸及依照 1982 年《联合国海洋法公约》从岸边向外延伸的辽阔海域。这意味着从越南 1982 年 11 月确定和公布的垂直基线算起往外延伸 200 海里宽的海域属越南的主权,被称作专属经济...
-
从十六、十七世纪至今,西方国家的轮船日益频繁来往于东海。他们来到这里,不只为了扩大贸易还为了传教和传播西方文化。在来往东海期间,西方航海家和传教士们以当时最现代的技术很详细地描述和绘画黄沙群岛和长沙群岛,以避免这两个群岛的礁石给来往的船舶造成危害。为此,他们很仔细地研究东海...
-
香港媒体最近透露中国在东海划分“新边界线”的海洋研究项目,为“资源研究”创造了条件,北京对这片海域的主权主张“增添了筹码”。这条新边界线是一条与囊括了蕴藏着丰富矿产和能源资源的东海海域九段线相吻合的实线,九段线内的海域就是北京声索主权的那片海域。 从国际法的角度来看实线...
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét